THƯỢNG HẢI, ngày 17 tháng 2 (SMM) –
Đồng
Đêm qua, đồng LME mở cửa ở mức 9,614.5 USD/tấn, ban đầu tăng nhẹ lên mức cao 9,684.5 USD/tấn, sau đó giảm liên tục xuống mức thấp 9,448.5 USD/tấn gần cuối phiên, tiếp theo là giao dịch trong biên độ hẹp và cuối cùng đóng cửa ở mức 9,465 USD/tấn, giảm 0,12%. Khối lượng giao dịch đạt 36,000 lô, và khối lượng mở đạt 295,000 lô. Đêm qua, hợp đồng đồng SHFE 2503 được giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 78,440 nhân dân tệ/tấn, đạt mức cao 78,580 nhân dân tệ/tấn đầu phiên, sau đó dao động giảm xuống mức thấp 76,980 nhân dân tệ/tấn gần cuối phiên, tiếp theo là giao dịch trong biên độ hẹp và cuối cùng đóng cửa ở mức 77,120 nhân dân tệ/tấn, giảm 0,89%. Khối lượng giao dịch đạt 54,000 lô, và khối lượng mở đạt 178,000 lô. Về mặt vĩ mô, doanh số bán lẻ tháng 1 của Mỹ theo tháng ghi nhận -0,9%, đánh dấu mức giảm lớn nhất kể từ tháng 1 năm 2024. Dữ liệu "đáng sợ" tệ hơn dự kiến làm gia tăng lo ngại về suy thoái kinh tế mạnh, gây áp lực lên cả chỉ số đồng USD và giá đồng. Về cơ bản, tồn kho chưa báo cáo tại các doanh nghiệp sản xuất thanh đồng đã giảm nhẹ, nhưng giá đồng vẫn ở mức cao. Nếu giá đồng không giảm đáng kể trong ngắn hạn, tâm lý tích trữ của các doanh nghiệp hạ nguồn dự kiến sẽ vẫn yếu, tập trung vào các nguồn giá thấp. Tóm lại, mặc dù tâm lý mua sắm của các doanh nghiệp hạ nguồn trong nước vẫn yếu, sản xuất vẫn đang phục hồi. Với kỳ họp Lưỡng Hội sắp tới tại Trung Quốc, giá đồng dự kiến sẽ có hỗ trợ ở mức đáy.
Nhôm
Thứ Sáu tuần trước, hợp đồng nhôm SHFE 2504 mở cửa ở mức 20,845 nhân dân tệ/tấn, đạt mức cao 20,880 nhân dân tệ/tấn, mức thấp 20,770 nhân dân tệ/tấn và đóng cửa ở mức 20,725 nhân dân tệ/tấn, tăng 70 nhân dân tệ/tấn hoặc 0,34% so với ngày trước đó. Nhôm LME mở cửa ở mức 2,606 USD/tấn, đạt đỉnh 2,649.5 USD/tấn, đáy 2,606 USD/tấn và chốt ở mức 2,635 USD/tấn, tăng 31.5 USD/tấn hoặc 1,21%.
Tóm tắt: Gần đây, các yếu tố vĩ mô có sự pha trộn. Trong nước, các nỗ lực thúc đẩy tiêu dùng tiếp tục, trong khi các rào cản thương mại ở nước ngoài đang gia tăng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước và tâm lý thị trường đã phản ứng hạn chế với những diễn biến này. Trong ngắn hạn, thị trường nhôm toàn cầu có thể trải qua điều chỉnh cấu trúc do ảnh hưởng của chính sách. Cần tiếp tục chú ý đến sự thay đổi trong chính sách thương mại châu Âu và Mỹ cũng như nhu cầu tại các thị trường tiêu dùng lớn. Về cơ bản, áp lực từ việc khôi phục sản xuất trong chuỗi cung ứng nhôm đã tái xuất hiện, với công suất hoạt động trong nước dự kiến tăng chậm trong tháng 2. Giá giao ngay trung bình của alumina tiếp tục suy yếu, kéo chi phí nhôm giảm và làm suy yếu thêm hỗ trợ từ phía chi phí. Mặc dù cả cung và cầu đều tăng, sự phục hồi nhu cầu sau kỳ nghỉ đã vượt kỳ vọng. Dù hỗ trợ từ chi phí giảm, giá nhôm kỳ hạn và giao ngay vẫn mạnh. Về tồn kho, lượng tồn kho sau kỳ nghỉ tiếp tục tăng, với dự kiến tăng nhanh trong tuần này. Về phía cầu, tỷ lệ hoạt động của các doanh nghiệp chế biến nhôm hạ nguồn hàng đầu trong nước đã tăng đáng kể trong tuần này, tăng 5,7 điểm phần trăm so với tuần trước lên 56,8%, chủ yếu do sản xuất trở lại sau Tết Nguyên đán, mặc dù sự phục hồi khác nhau giữa các ngành. Trong tương lai, với nhu cầu PV tăng và sản xuất của người dùng cuối được khôi phục hoàn toàn, cùng với tăng trưởng cung hạn chế, giá nhôm dự kiến sẽ dao động ở mức cao trong ngắn hạn.
Chì
Tối thứ Sáu tuần trước, chì LME mở cửa ở mức 1,992.5 USD/tấn. Trong phiên châu Á, nó giao dịch đi ngang quanh mức trung bình động trong ngày. Khi bước vào phiên châu Âu, nó dao động giảm sau khi đạt đỉnh 2,002.5 USD/tấn, chạm mức thấp 1,972 USD/tấn và cuối cùng đóng cửa ở mức 1,982 USD/tấn, giảm 9.5 USD/tấn hoặc 0,48%. Tối thứ Sáu tuần trước, hợp đồng chì SHFE 2503 được giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 17,130 nhân dân tệ/tấn. Sau khi giảm xuống 17,070 nhân dân tệ/tấn đầu phiên, nó phục hồi và tăng lên mức cao 17,240 nhân dân tệ/tấn. Sau đó, nó giảm trở lại dưới áp lực và giao dịch đi ngang gần mức trung bình động trong ngày, cuối cùng đóng cửa ở mức 17,135 nhân dân tệ/tấn, giảm 30 nhân dân tệ/tấn hoặc 0,17%.
Trước khi giao hàng hợp đồng chì SHFE 2502, mức chênh lệch giá giao ngay giảm nhẹ, và các nhà cung cấp tăng chuyển kho để giao hàng, dẫn đến áp lực tạm thời lên giá chì do tồn kho chì thỏi nhìn thấy được tăng lên. Sau Tết Nguyên tiêu, hầu hết các doanh nghiệp chì hạ nguồn đã khôi phục sản xuất, và công nhân dần trở lại làm việc. Tuần này, sản xuất pin hạ nguồn dự kiến sẽ tăng nhẹ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức tiêu thụ tăng thêm này có thể không nhanh chóng bù đắp lượng tồn kho chì thỏi hiện có, và rủi ro giảm giá tạm thời của chì vẫn cần được theo dõi.
Kẽm
Thứ Sáu tuần trước, kẽm LME mở cửa ở mức 2,842 USD/tấn. Trong phiên giao dịch đầu, phe mua tăng vị thế, đẩy giá kẽm LME lên trên mức trung bình động hàng ngày. Trong giờ giao dịch châu Âu, nó đạt đỉnh 2,900 USD/tấn. Sau đó, với sự tham gia của phe bán và phe mua đóng vị thế, kẽm LME phá vỡ hỗ trợ từ mức trung bình động hàng ngày và tiếp tục giảm, chạm mức thấp 2,838 USD/tấn vào cuối phiên. Cuối cùng, nó đóng cửa cao hơn ở mức 2,838.5 USD/tấn, tăng 1 USD/tấn hoặc 0,04%. Khối lượng giao dịch tăng lên 11,111 lô, và khối lượng mở tăng 1,566 lô lên 227,000 lô. Thứ Sáu tuần trước, kẽm LME hình thành một cây nến bóng dài phía trên, với kháng cự từ mức trung bình động 20 ngày phía trên và hỗ trợ từ mức trung bình động 10 ngày phía dưới. Cùng ngày, doanh số bán lẻ tháng 1 của Mỹ giảm mạnh 0,9%, đánh dấu mức giảm lớn nhất trong gần hai năm, dẫn đến sự tăng vọt ban đầu và sau đó giảm trở lại của kẽm LME.
Thứ Sáu tuần trước, hợp đồng kẽm SHFE 2503 được giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 24,075 nhân dân tệ/tấn. Trong phiên giao dịch đầu, với phe mua rút lui, kẽm SHFE giảm theo từng bước. Đến cuối phiên, trung tâm của nó ở khoảng 23,720 nhân dân tệ/tấn, với mức thấp trong ngày là 23,685 nhân dân tệ/tấn. Cuối cùng, nó đóng cửa thấp hơn ở mức 23,710 nhân dân tệ/tấn, giảm 210 nhân dân tệ/tấn hoặc 0,88%. Khối lượng giao dịch giảm xuống 90,813 lô, và khối lượng mở giảm 2,000 lô xuống 81,893 lô. Thứ Sáu tuần trước, kẽm SHFE hình thành một cây nến giảm lớn, với kháng cự từ mức trung bình động 40 ngày phía trên và chỉ báo KDJ thu hẹp. Sự tăng vọt ban đầu và sau đó giảm trở lại của kẽm LME đã gây áp lực lên kẽm SHFE. Trong khi đó, về cơ bản, TC tiếp tục tăng, và kỳ vọng về nguồn cung quặng dồi dào càng được củng cố, gây áp lực lên giá kẽm ở mức cao.
Thiếc
Tuần trước, thị trường kỳ hạn thiếc SHFE dao động tăng. Đầu tuần, tin tức về gián đoạn nguồn cung quặng thiếc từ DRC làm gia tăng lo ngại của thị trường về nguồn cung, đẩy giá thiếc SHFE tăng. Lúc này, kỳ vọng về nguồn cung thắt chặt trở thành động lực chính cho sự tăng giá. Hợp đồng được giao dịch nhiều nhất đóng cửa với mức tăng nhẹ, phản ánh sự cảnh giác cao của thị trường đối với những bất ổn trong nguồn cung quặng thiếc tương lai. Khi cuối tuần đến gần, tỷ giá đồng USD suy yếu, cùng với kỳ vọng lạc quan về chính sách Lưỡng Hội trong nước, đã tạo động lực mới cho thị trường, cung cấp cơ hội tăng giá nhanh chóng cho thiếc SHFE. Tuy nhiên, so với thị trường kỳ hạn sôi động, giao dịch giao ngay tuần này có vẻ khá trầm lắng. Nhìn chung, các doanh nghiệp hạ nguồn cho thấy ý chí mua yếu, với phần lớn thích tiêu thụ tồn kho hiện có hơn là tăng mua mới. Các nhà giao dịch nói chung báo cáo rằng giá thiếc cao hiện tại đã làm giảm đáng kể ý chí hỏi mua của các doanh nghiệp hạ nguồn, dẫn đến tâm lý chờ đợi mạnh mẽ trên thị trường. Mặc dù một số doanh nghiệp chọn bổ sung hàng cần thiết trong các đợt điều chỉnh giá, khối lượng giao dịch tổng thể vẫn hạn chế. Hầu hết các nhà giao dịch thích áp dụng phương pháp thanh toán sau khi định giá trong các giao dịch.
Niken
Tuần trước, giá niken tiếp tục giảm, với giá giao ngay dao động trong khoảng 124,100-129,150 nhân dân tệ/tấn, trong khi giá kỳ hạn niken SHFE dao động từ 123,000 nhân dân tệ/tấn đến 127,950 nhân dân tệ/tấn.
Các báo cáo thị trường cho biết Indonesia đã phê duyệt hạn ngạch quặng niken năm 2025 là 290 triệu tấn, nhưng các quan chức từ Bộ Năng lượng và Tài nguyên Khoáng sản dự kiến sản lượng thực tế chỉ đạt 220 triệu tấn, thấp hơn kỳ vọng của thị trường. Các quan chức đề cập đến việc kiểm soát sản xuất quặng niken để tăng giá và đảm bảo lợi nhuận cho ngành công nghiệp niken trong nước, cung cấp một số hỗ trợ cho giá niken. Ngoài ra, Philippines đang cố gắng bắt chước chính sách "cấm xuất khẩu quặng" của Indonesia. Mặc dù tác động ngắn hạn là hạn chế, nhưng điều này đã làm dấy lên lo ngại về nguồn cung tương lai, dẫn đến sự tăng giá ngắn hạn của niken vào đầu tuần này.
Về cơ bản, về phía cung, hầu hết các nhà máy đang hoạt động ở công suất một phần sau kỳ nghỉ, và sản lượng niken tinh chế tháng 2 dự kiến sẽ giảm nhẹ so với tháng trước, mặc dù nguồn cung tổng thể vẫn dồi dào. Về phía cầu, mặc dù nhu cầu hạ nguồn đang dần phục hồi, giao dịch tổng thể vẫn trì trệ, và sự nhiệt tình mua sắm của thị trường thấp.
Tính đến ngày 14 tháng 2, mức chênh lệch giá của thương hiệu niken Jinchuan dao động từ 2,000-2,100 nhân dân tệ/tấn, với mức trung bình là 2,050 nhân dân tệ/tấn. Với kỳ họp Lưỡng Hội sắp tới, tâm lý thị trường dự kiến sẽ chi phối xu hướng chênh lệch giá vào tuần tới, có thể gây ra những dao động nhẹ.
Tóm lại, mặc dù những bất ổn chính sách ở Indonesia và Philippines cung cấp một số hỗ trợ cho giá, nhu cầu yếu hạn chế tiềm năng tăng giá của niken, và sự dư thừa cung-cầu vẫn tiếp diễn. Trong ngắn hạn, giá niken dự kiến sẽ tiếp tục dao động ở mức thấp. Các nhà đầu tư nên theo dõi việc thực hiện các chính sách của Indonesia và sự phục hồi thực tế của nhu cầu hạ nguồn. Giá giao ngay niken dự kiến sẽ dao động trong khoảng 124,400-130,100 nhân dân tệ/tấn, và giá kỳ hạn dự kiến sẽ dao động từ 124,500-128,000 nhân dân tệ/tấn.



