Theo số liệu của Cục Thống kê Quốc gia (NBS), trong tháng 4 năm 2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá cả ở khu vực thành thị không thay đổi, trong khi ở khu vực nông thôn giảm 0,3%. Giá thực phẩm giảm 0,2%, trong khi giá phi thực phẩm không thay đổi. Giá hàng tiêu dùng giảm 0,3%, trong khi giá dịch vụ tăng 0,3%. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 4, CPI của Trung Quốc giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Số liệu của NBS cũng cho thấy trong tháng 4 năm 2025, chỉ số giá sản xuất (PPI) của Trung Quốc đối với sản phẩm công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,4% so với tháng trước. Giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,6% so với tháng trước. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 4, cả PPI đối với sản phẩm công nghiệp và giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp đều giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Bà Đổng Lệ Quyên, Trưởng phòng Thống kê Đô thị của NBS, đã giải thích số liệu CPI và PPI tháng 4 năm 2025: Trong tháng 4, CPI tăng 0,1% so với tháng trước, đảo ngược mức giảm 0,4% của tháng trước, và giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước, với mức giảm không thay đổi so với tháng trước. CPI lõi tăng 0,2% so với tháng trước, đảo ngược xu hướng không thay đổi của tháng trước, và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước, với mức tăng ổn định. PPI giảm 0,4% so với tháng trước, với mức giảm không thay đổi so với tháng trước, và giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước, với mức giảm mở rộng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước. Mặc dù các yếu tố nhập khẩu quốc tế đã có tác động giảm nhất định đến giá cả ở một số ngành, nhưng nền tảng kinh tế của Trung Quốc vẫn ổn định và có khả năng phục hồi, các chính sách vĩ mô khác nhau đang phối hợp tác động, phát triển chất lượng cao đang tiến triển ổn định và giá cả ở một số lĩnh vực đang có những thay đổi tích cực.
Trong tháng 4 năm 2025, PPI của Trung Quốc đối với sản phẩm công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước
Trong tháng 4 năm 2025, PPI của Trung Quốc đối với sản phẩm công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,4% so với tháng trước. Giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,6% so với tháng trước. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 4, cả PPI đối với sản phẩm công nghiệp và giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp đều giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước.


I. Thay đổi so với cùng kỳ năm trước của chỉ số giá sản xuất công nghiệp (PPI)
Trong tháng 4, trong số PPI của các sản phẩm công nghiệp, giá các phương tiện sản xuất giảm 3,1%, góp phần làm giảm tổng thể PPI của các sản phẩm công nghiệp khoảng 2,28 điểm phần trăm. Cụ thể, giá các ngành khai khoáng giảm 9,4%, giá các ngành nguyên liệu giảm 3,6% và giá các ngành chế biến giảm 2,3%. Giá các phương tiện sinh hoạt giảm 1,6%, góp phần làm giảm tổng thể PPI của các sản phẩm công nghiệp khoảng 0,40 điểm phần trăm. Cụ thể, giá thực phẩm giảm 1,4%, giá quần áo giảm 0,1%, giá các mặt hàng thiết yếu hàng ngày tăng 0,6% và giá hàng tiêu dùng lâu bền giảm 3,7%.


Trong số các giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp, giá nhiên liệu và điện giảm 7,7%, giá vật liệu kim loại màu giảm 6,7%, giá nguyên liệu hóa học giảm 4,1%, giá nông sản và phụ phẩm nông nghiệp giảm 2,9%, giá nguyên liệu dệt may giảm 2,3% và giá vật liệu xây dựng và phi kim loại giảm 1,4%; giá vật liệu kim loại không màu và dây điện tăng 8,5%.
II. Thay đổi so với tháng trước của chỉ số giá sản xuất công nghiệp
Trong tháng 4, trong số các giá xuất xưởng của các nhà sản xuất công nghiệp, giá các phương tiện sản xuất giảm 0,5%, góp phần làm giảm tổng thể giá xuất xưởng của các nhà sản xuất công nghiệp khoảng 0,37 điểm phần trăm. Cụ thể, giá các ngành khai khoáng giảm 2,1%, giá các ngành nguyên liệu giảm 1,0% và giá các ngành chế biến giảm 0,2%. Giá các phương tiện sinh hoạt giảm 0,2%, góp phần làm giảm tổng thể giá xuất xưởng của các nhà sản xuất công nghiệp khoảng 0,05 điểm phần trăm. Cụ thể, giá thực phẩm giảm 0,1%, giá quần áo tăng 0,3%, giá các mặt hàng thiết yếu hàng ngày tăng 0,2% và giá hàng tiêu dùng lâu bền giảm 0,7%.
Trong số các giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp, giá nhiên liệu và điện giảm 2,3%, giá nguyên liệu hóa học giảm 0,7%, giá vật liệu kim loại màu giảm 0,6%, giá vật liệu xây dựng và phi kim loại giảm 0,4% và giá nông sản và phụ phẩm nông nghiệp, giá nguyên liệu dệt may đều giảm 0,2%; giá vật liệu kim loại không màu và dây điện tăng 0,7%.

Vào tháng 4/2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng tháng (MoM) chuyển từ giảm sang tăng, trong khi tăng trưởng CPI lõi vẫn ổn định
—Diễn giải dữ liệu CPI và PPI tháng 4/2025 của Đồng Lệ Quyên, Trưởng phòng Thống kê Đô thị, Cục Thống kê Quốc gia (NBS)
Trong tháng 4, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng tháng (MoM) chuyển từ giảm 0,4% so với tháng trước sang tăng 0,1%, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm ngoái, không đổi so với tháng trước. CPI lõi chuyển từ ổn định sang tăng 0,2% so với tháng trước, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm ngoái, duy trì tăng trưởng ổn định. Chỉ số giá sản xuất (PPI) của các nhà sản xuất công nghiệp giảm 0,4% so với tháng trước, không đổi so với tháng trước, và giảm 2,7% so với cùng kỳ năm ngoái, với mức giảm mở rộng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước. Mặc dù các yếu tố nhập khẩu quốc tế đã có tác động giảm nhất định đến giá cả ở một số ngành, nền tảng kinh tế của Trung Quốc vẫn ổn định và có khả năng phục hồi, với nhiều chính sách vĩ mô phối hợp để thúc đẩy phát triển chất lượng cao, dẫn đến những thay đổi tích cực về giá cả ở một số lĩnh vực.
I. CPI hàng tháng chuyển từ giảm sang tăng, với mức giảm so với cùng kỳ năm ngoái nhẹ, và tăng trưởng CPI lõi vẫn ổn định
Xét về mặt hàng tháng, CPI chuyển từ giảm sang tăng, với mức tăng vượt mức theo mùa 0,2 điểm phần trăm, chủ yếu do sự phục hồi của giá thực phẩm và dịch vụ du lịch. Giá thực phẩm tăng 0,2% so với tháng trước, cao hơn mức theo mùa 1,4 điểm phần trăm. Trong đó, giá thịt bò tăng 3,9% do các yếu tố như giảm nhập khẩu. Khi một số khu vực bước vào thời kỳ cấm đánh bắt cá biển, giá cá biển tăng 2,6%. Trong giai đoạn ban đầu của việc cung cấp trái cây mới, lượng cung theo mùa của khoai tây và trái cây tươi giảm, dẫn đến giá tăng lần lượt là 4,7% và 2,2%. Giá rau tươi và thịt lợn giảm lần lượt là 1,8% và 1,6%, với mức giảm nhỏ hơn mức theo mùa. Chịu ảnh hưởng của sự phục hồi nhu cầu và các yếu tố liên quan đến ngày lễ, giá dịch vụ du lịch phục hồi đáng kể. Giá vé máy bay, phí thuê xe, chỗ ở khách sạn và du lịch lần lượt tăng 13,5%, 7,3%, 4,5% và 3,1%, với mức tăng đều cao hơn mức theo mùa, cùng nhau đóng góp vào mức tăng CPI hàng tháng khoảng 0,10 điểm phần trăm.Do sự thay đổi của giá vàng quốc tế, giá vàng trang sức trong nước đã tăng 10,1%, góp phần làm tăng CPI so với tháng trước khoảng 0,06 điểm phần trăm.
So với cùng kỳ năm trước, CPI giảm nhẹ, chủ yếu do ảnh hưởng của sự giảm giá dầu quốc tế. Giá năng lượng giảm 4,8% so với cùng kỳ năm trước, mức giảm mở rộng 2,2 điểm phần trăm so với tháng trước. Trong đó, giá xăng giảm 10,4%, góp phần làm giảm CPI so với cùng kỳ năm trước khoảng 0,38 điểm phần trăm, đây là yếu tố chính thúc đẩy sự giảm giá CPI so với cùng kỳ năm trước. Giá thực phẩm giảm 0,2%, mức giảm thu hẹp 1,2 điểm phần trăm so với tháng trước, góp phần làm giảm CPI khoảng 0,03 điểm phần trăm. CPI cơ bản, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, tăng 0,5%, mức tăng vẫn ổn định. Trong đó, giá dịch vụ tăng 0,3%, mức tăng không thay đổi so với tháng trước. Trong các dịch vụ, giá dịch vụ quản lý gia đình, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi và dịch vụ giáo dục lần lượt tăng 2,5%, 1,4% và 1,2%, với mức tăng tổng thể ổn định. Giá hàng tiêu dùng công nghiệp không bao gồm năng lượng tăng 0,4%, góp phần làm tăng CPI so với cùng kỳ năm trước khoảng 0,10 điểm phần trăm. Trong đó, giá trang sức vàng tăng 35,8%, mức tăng mở rộng nhẹ so với tháng trước. Giá quần áo và công cụ truyền thông lần lượt tăng 1,5% và 1,0%, mức tăng vẫn ổn định. Giá xe du lịch chạy xăng và xe du lịch năng lượng mới lần lượt giảm 4,6% và 3,4%, cả hai mức giảm đều thu hẹp.
II. Sự giảm giá PPI so với tháng trước vẫn giữ nguyên như tháng trước, với giá cả trong một số ngành công nghiệp tiếp tục cho thấy xu hướng ổn định và cải thiện.
PPI giảm 0,4% so với tháng trước, mức giảm vẫn giữ nguyên như tháng trước. Những lý do chính cho sự giảm giá PPI trong tháng này là: Thứ nhất, các yếu tố nhập khẩu quốc tế đã ảnh hưởng đến xu hướng giảm giá của các ngành công nghiệp liên quan trong nước. Sự thay đổi của môi trường thương mại quốc tế đã dẫn đến sự giảm giá nhanh chóng của một số hàng hóa rời quốc tế, ảnh hưởng đến sự giảm giá của các ngành công nghiệp liên quan trong nước. Trong đó, sự giảm giá dầu thô quốc tế đã ảnh hưởng đến sự giảm giá PPI so với tháng trước của các ngành công nghiệp liên quan đến dầu trong nước.Giá của ngành khai thác dầu và khí đốt tự nhiên giảm 3,1%, giá của ngành sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 2,5%, và giá của ngành sản xuất nguyên liệu hóa học và sản phẩm hóa học giảm 0,6%. Sự sụt giảm giá quốc tế của các kim loại màu như nhôm, kẽm và đồng đã ảnh hưởng đến sự giảm giá lần lượt là 2,4%, 1,6% và 0,8% của các ngành luyện nhôm, luyện kẽm và luyện đồng trong nước. Giá của một số ngành công nghiệp xuất khẩu giảm so với tháng trước, trong đó ngành sản xuất ô tô giảm 0,5%. Ngành sản xuất máy tính, thông tin liên lạc và các thiết bị điện tử khác, ngành sản xuất đồ gỗ và ngành sản xuất các sản phẩm kim loại đúc đều giảm 0,2% về giá. Tổng cộng, 10 ngành này đã góp phần làm giảm Chỉ số Giá Sản xuất (PPI) khoảng 0,24 điểm phần trăm so với tháng trước. Thứ hai, giá năng lượng trong nước giảm theo mùa. Với việc kết thúc hoàn toàn mùa sưởi ấm miền Bắc, nhu cầu than đã bước vào mùa thấp điểm truyền thống, dẫn đến giảm 3,3% so với tháng trước về giá của cả ngành khai thác và rửa than và giá chế biến than. Chi phí thấp và hiệu ứng thay thế mạnh mẽ của phát điện năng lượng mới, cùng với sự gia tăng sản lượng điện gió, đã dẫn đến giảm 0,3% so với tháng trước về giá của ngành sản xuất và cung cấp điện, nhiệt. Tổng cộng, ba ngành này đã góp phần làm giảm PPI khoảng 0,10 điểm phần trăm so với tháng trước.
Trung Quốc đã tăng cường và mở rộng các chính sách vĩ mô của mình, chẳng hạn như thúc đẩy tiêu dùng, đẩy nhanh tăng trưởng của các ngành công nghiệp công nghệ cao, tăng nhu cầu trong một số lĩnh vực và cho thấy những thay đổi tích cực về giá trong một số lĩnh vực. Thứ nhất, mối quan hệ cung - cầu trong một số ngành đã được cải thiện, với sự thu hẹp mức giảm giá. Tiến độ ổn định của các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trên khắp các khu vực và việc thực hiện tốt các kế hoạch sản xuất xen kẽ của các doanh nghiệp xi măng đã dẫn đến thu hẹp mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của ngành luyện kim và chế biến kim loại màu và ngành sản xuất sản phẩm khoáng sản phi kim loại lần lượt là 1,4 và 1,0 điểm phần trăm so với tháng trước. Các chính sách thúc đẩy tiêu dùng và cập nhật thiết bị tiếp tục cho thấy hiệu quả, với nhu cầu tăng đối với một số sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm sản xuất thiết bị đã thúc đẩy sự phục hồi giá của các ngành liên quan.Mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của máy giặt gia đình đã thu hẹp 0,3 điểm phần trăm so với tháng trước, trong khi mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của ngành chế biến thực phẩm và xe điện năng lượng mới (NEV) chở khách đã thu hẹp 0,2 điểm phần trăm mỗi ngành. Mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của ngành chế tạo máy móc và thiết bị điện đã thu hẹp 0,7 điểm phần trăm, và mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của ngành chế tạo máy móc nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và thủy sản, cũng như ngành chế tạo máy móc chế biến kim loại, đã thu hẹp 0,2 điểm phần trăm mỗi ngành. Thứ hai, sự phát triển của các ngành công nghiệp công nghệ cao đã thúc đẩy tăng giá trong các lĩnh vực liên quan. Việc không ngừng vun đắp và phát triển các lực lượng sản xuất chất lượng mới, cùng với sự hội nhập sâu rộng giữa đổi mới công nghệ và đổi mới công nghiệp, đã dẫn đến tăng giá so với cùng kỳ năm trước trong các ngành công nghiệp liên quan do sự phát triển của các ngành như sản xuất thông minh và sản xuất thiết bị cao cấp. Giá sản xuất thiết bị thông minh đeo được tăng 3,0%, giá sản xuất máy bay tăng 1,3%, giá sản xuất động cơ và linh kiện vi mô và đặc biệt tăng 1,2%, giá máy chủ tăng 1,0% và giá sản xuất tàu và thiết bị liên quan tăng 0,8%. Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy đa dạng hóa thương mại, với việc mở rộng thị trường thúc đẩy tăng giá so với cùng kỳ năm trước hoặc thu hẹp mức giảm giá trong một số ngành công nghiệp xuất khẩu. Giá các sản phẩm đóng gói và thử nghiệm mạch tích hợp tăng 2,7%, và giá thiết bị sản xuất thiết bị bán dẫn tăng 1,0%. Mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của ngành sản xuất máy kéo, sản xuất thiết bị điện tử và ngành dệt may, may mặc đã thu hẹp lần lượt 1,2, 0,7 và 0,3 điểm phần trăm so với tháng trước.



