Ngày 23/12 (SMM) -
Cảng miền Bắc: Quặng sắt cao Nam Phi ở mức 30-30,5 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng bán carbonate Nam Phi ở mức 34-34,5 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng Gabon ở mức 42,9-43,5 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng c cục Australia ở mức 43,4-43,9 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng sắt trung Nam Phi ở mức 36,9-37,4 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần.
Cảng miền Nam: Quặng sắt cao Nam Phi ở mức 30,3-30,8 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng bán carbonate Nam Phi ở mức 35,7-36,4 nhân dân tệ/mtu, giảm 0,83% theo tuần; Quặng Gabon ở mức 41,1-42 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng cục Australia ở mức 41,5-42,2 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần; Quặng sắt trung Nam Phi ở mức 37,1-37,6 nhân dân tệ/mtu, giữ nguyên theo tuần.
Thị trường quặng mangan trong nước củng cố vào đầu tuần, với cuộc giằng co giữa hỗ trợ chi phí từ phía cung và sự phân hóa theo khu vực từ phía cầu, trong khi cơ cấu t tồn kho cảng có sự khác biệt.
Về phía cung, các mỏ mangan nước ngoài đã nâng giá chào bán cho tháng 1/2026 so với tháng 12/2025, c củng cố hỗ trợ chi phí cho quặng mangan nhập khẩu của Trung Quốc trên thị trường kỳ hạn và khiến giá quặng ít có không gian để điều chỉnh giảm. Cụ thể, lượng quặng sắt trung Nam Phi nhập cảng gần đây vẫn ở mức thấp, dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn hàng lưu thông trên thị trường. Hầu như không có giao dịch thực tế nào trong tuần này, và các thương nhân thể hiện ý định giữ giá mạnh mẽ, giữ cho giá ổn định. Giá chào bán các loại quặng chủ lưu khác cũng không có dấu hiệu nới lỏng, với ý định bán ở mức giá thấp của thương nhân thấp. Nhìn chung, phía cung tạo ra h hỗ trợ vững chắc cho giá.
Về phía cầu, hoạt động thăm dò ở cả thị trường miền Bắc và miền Nam chậm lại so với tuần trước, nhưng hai khu vực vẫn cho thấy sự phân hóa. Tại miền Bắc, được thúc đẩy bởi tâm lý lạc quan trên thị trường quặng mangan và kỳ vọng về việc khởi động sản xuất tại trung tâm sản xuất SiMn Nội Mông vào cuối tháng, các nhà máy SiMn thể hiện tâm lý mua quặng mangan tương đối tích cực, tạo ra h hỗ trợ hiệu quả cho nhu cầu quặng. Tuy nhiên, ngành công nghiệp SiMn vẫn trong mùa thấp điểm, với một số doanh nghiệp tiếp tục cắt giảm sản xuất và số lượng doanh nghiệp hiện đang hoạt động còn hạn chế. Hầu hết các nhà máy hợp kim áp dụng chiến lược mua hàng theo nhu cầu, dẫn đến nhu cầu tương đối trung bình.
Về phía tồn kho, t tồn kho tại cảng Thiên Tân ở mức trung bình với áp lực t tồn kho vừa phải, cung cấp một số hỗ trợ cho giá quặng mangan ổn định. Tại cảng Khâm Châu, do ảnh hưưởng của việc chậm trễ trong nhận hàng tại cảng, t tồn kho tiếp tục tích lũy trong tháng này, và mức tồn kho cao hiện tại phần nào hạn chế mức tăng giá giao dịch quặng mangan.



