Thị trường kỳ hạn: Hợp đồng hợp kim nhôm đúc AD2511 được giao dịch nhiều nhất mở cửa ở mức 19.880 nhân dân tệ/tấn vào đêm qua, đạt mức cao nhất là 19.945 nhân dân tệ/tấn và mức thấp nhất là 19.870 nhân dân tệ/tấn, trước khi đóng cửa ở mức 19.940 nhân dân tệ/tấn, tăng 10 nhân dân tệ/tấn (0,05%) so với ngày giao dịch trước đó. Khối lượng giao dịch đạt 806 lô, trong khi lô mở vị thế đạt 8.747 lô, với những người bán chiếm ưu thế trong việc giảm vị thế.
Báo cáo chênh lệch giá kỳ hạn và giá giao ngay: Theo dữ liệu của SMM, giá giao ngay của SMM ADC12 cho thấy mức chênh lệch giá lý thuyết là 135 nhân dân tệ/tấn so với giá đóng cửa của hợp đồng hợp kim nhôm đúc được giao dịch nhiều nhất (AD2511) vào lúc 10 giờ 15 phút sáng ngày 11 tháng 7.
Phế liệu nhôm: Thứ Sáu tuần trước, giá nhôm nguyên liệu giao ngay giảm 30 nhân dân tệ/tấn so với ngày giao dịch trước đó, với giá giao ngay SMM A00 đóng cửa ở mức 20.790 nhân dân tệ/tấn. Trên thị trường phế liệu, giá ở một số khu vực chậm hơn và tiếp tục tăng. Theo sản phẩm, phế liệu UBC đã nén lại tăng 50 nhân dân tệ/tấn so với tuần trước. Theo khu vực, Thượng Hải, Giang Tô và Sơn Đông theo sát chặt chẽ biến động giá nhôm với điều chỉnh dao động từ 0-50 nhân dân tệ/tấn, trong khi Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây và An Huy chậm hơn, cùng nhau tăng giá vào thứ Sáu tuần trước. Thị trường phế liệu dự kiến sẽ dao động ở mức cao trong tuần này, với sự khác biệt giữa các sản phẩm và sự khác biệt giữa các khu vực vẫn tiếp tục. Phế liệu nhôm nghiền vụn, được hỗ trợ bởi nguồn cung khan hiếm, có khả năng duy trì khả năng chống chịu giá cả, dao động trong khoảng 15.800-17.400 nhân dân tệ/tấn. Phế liệu UBC đã nén lại phải đối mặt với áp lực giảm giá lớn hơn do nhu cầu mùa thấp điểm yếu, có khả năng giảm xuống còn 15.200-15.700 nhân dân tệ/tấn. Theo khu vực, Đông Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục theo sát chặt chẽ giá nhôm nguyên liệu, với điều chỉnh hàng ngày có thể mở rộng lên 150-200 nhân dân tệ/tấn. Các tỉnh nội địa và phía Nam (ví dụ như Giang Tây, Hồ Nam, Quý Châu, Quảng Đông) có thể thiếu động lực tăng giá do giá chậm hơn và động lực cung cầu địa phương, có khả năng mở rộng chênh lệch giá.
Thị trường nước ngoài: Giá CIF ADC12 nhập khẩu giữ nguyên ở mức 2.450-2.480 USD/tấn, trong khi giá nhập khẩu giao ngay tăng nhẹ lên khoảng 19.300 nhân dân tệ/tấn, thu hẹp khoản lỗ nhập khẩu ngay lập tức xuống còn khoảng 800 nhân dân tệ/tấn. Giá ADC12 cung cấp tại địa phương ở Thái Lan (chưa bao gồm thuế) tập trung ở mức 82-83 baht/kg.
Tồn kho: Dữ liệu của SMM cho thấy tồn kho xã hội của thanh hợp kim nhôm thứ cấp ở Phật Sơn, Ninh Ba và Vô Tích là 25.312 tấn vào ngày 11 tháng 7, tăng 196 tấn so với ngày trước đó và 3.324 tấn so với tuần trước.
Tóm tắt: Giá nhôm dao động nhẹ vào thứ Sáu tuần trước, với hầu hết các nhà tham gia thị trường nhôm phụ đều duy trì mức giá ổn định. Giá SMM ADC12 giữ nguyên ở mức 20.100 nhân dân tệ/tấn. Gần đây, việc thu hẹp nguồn cung phế liệu cả trong và ngoài nước đã làm tăng đáng kể khó khăn trong việc mua nguyên liệu của các nhà sản xuất nhôm phụ, khiến cạnh tranh thị trường về nguyên liệu ngày càng gay gắt và tiếp tục đẩy cao chi phí sản xuất, mở rộng khoản lỗ của doanh nghiệp. Bị hạn chế bởi cả tình trạng thiếu hụt nguyên liệu và nhu cầu suy giảm, nhiều nhà sản xuất nhôm phụ đã buộc phải cắt giảm sản lượng, một số thậm chí đã dừng hoạt động hoàn toàn. Nhìn chung, sự cạnh tranh giữa hỗ trợ chi phí mạnh và hạn chế nhu cầu yếu vẫn tiếp tục, dự kiến giá ADC12 trong tháng 7 sẽ duy trì xu hướng dao động trong phạm vi hẹp.
【Thông tin được cung cấp chỉ để tham khảo. Bài viết này không tạo thành lời khuyên trực tiếp cho việc ra quyết định đầu tư nghiên cứu, khách hàng nên thận trọng khi ra quyết định, không nên thay thế quyết định độc lập của mình bằng thông tin này, bất kỳ quyết định nào của khách hàng đều không liên quan đến Shanghai Metals Market】
》Đặt hàng để xem lịch sử giá hiện vật kim loại SMM



