Giá địa phương sắp được công bố, xin vui lòng chờ đợi!
Biết rồi
+86 021 5155-0306
Ngôn ngữ:  

Trong quý 1, doanh số bán xe năng lượng mới của Trung Quốc đạt 3,075 triệu chiếc, với tổng công suất lắp đặt pin điện vượt 130 GWh.

  • Th04 14, 2025, at 8:46 am
Vào ngày 11 tháng 4, Hiệp hội Công nghiệp Ô tô Trung Quốc (CAAM) đã công bố dữ liệu sản xuất và bán hàng của ngành công nghiệp ô tô trong tháng 3. Trong tháng 3, sản lượng và doanh số bán hàng ô tô của Trung Quốc lần lượt đạt 3,006 triệu và 2,915 triệu chiếc, tăng lần lượt 42,9% và 37% so với tháng trước, và tăng lần lượt 11,9% và 8,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, sản lượng và doanh số bán hàng ô tô của Trung Quốc lần lượt đạt 7,561 triệu và 7,47 triệu chiếc, tăng lần lượt 14,5% và 11,2% so với cùng kỳ năm ngoái, với tốc độ tăng trưởng giảm lần lượt 1,7 và 1,9 điểm phần trăm so với tháng 1-2. Về xe năng lượng mới (NEV), trong tháng 3, sản lượng và doanh số bán hàng NEV của Trung Quốc lần lượt đạt 1,277 triệu và 1,237 triệu chiếc, tăng lần lượt 47,9% và 40,1% so với cùng kỳ năm ngoái, với doanh số bán hàng NEV chiếm 42,4% tổng doanh số bán hàng ô tô. Từ tháng 1 đến tháng 3, sản lượng và doanh số bán hàng NEV của Trung Quốc lần lượt đạt 3,182 triệu và 3,075 triệu chiếc, tăng lần lượt 50,4% và 47,1% so với cùng kỳ năm ngoái, với doanh số bán hàng NEV chiếm 41,2% tổng doanh số bán hàng ô tô. Theo CAAM, trong quý I, một loạt các chính sách thúc đẩy tiêu dùng ô tô đã được mở rộng và đẩy nhanh, thị trường tiêu dùng được cải thiện, các công ty tung ra sản phẩm mới, niềm tin của người tiêu dùng được củng cố, sản lượng và doanh số bán hàng đều tăng trưởng hai con số, cho thấy một khởi đầu tốt đẹp cho ngành công nghiệp ô tô. Cụ thể, xe chở khách vẫn duy trì đà tăng trưởng tốt, thị trường xe thương mại có dấu hiệu phục hồi, sản lượng và doanh số bán hàng NEV tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng, cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ, xuất khẩu xe vẫn duy trì tăng trưởng ổn định, với xuất khẩu NEV tăng trưởng đặc biệt đáng kể, và các thương hiệu Trung Quốc tiếp tục tăng lên, duy trì tỷ lệ bán hàng cao. Trong quý I, xuất khẩu NEV của Trung Quốc đạt 441.000 chiếc, tăng 43,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Về doanh số bán hàng, trong tháng 3, doanh số bán hàng NEV trong nước của Trung Quốc đạt 1,079 triệu chiếc, tăng 41,9% so với tháng trước và 42,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, doanh số bán hàng NEV chở khách trong nước đạt 1,009 triệu chiếc, tăng 40,4% so với tháng trước và 42,2% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi doanh số bán hàng NEV thương mại trong nước đạt 70.000 chiếc, tăng 67,9% so với tháng trước và 43% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, doanh số bán hàng NEV trong nước của Trung Quốc đạt 2,633 triệu chiếc, tăng 47,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, doanh số bán hàng NEV chở khách trong nước đạt 2,484 triệu chiếc, tăng 47,6% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi doanh số bán hàng NEV thương mại trong nước đạt 149.000 chiếc, tăng 48,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, trong tháng 3, doanh số bán hàng NEV trong nước chiếm 44,8% tổng doanh số bán hàng ô tô trong nước, doanh số bán hàng NEV chở khách trong nước chiếm 49% tổng doanh số bán hàng xe chở khách trong nước, và doanh số bán hàng NEV thương mại trong nước chiếm 19,9% tổng doanh số bán hàng xe thương mại trong nước. Từ tháng 1 đến tháng 3, doanh số bán hàng NEV trong nước chiếm 43,5% tổng doanh số bán hàng ô tô trong nước, doanh số bán hàng NEV chở khách trong nước chiếm 47,4% tổng doanh số bán hàng xe chở khách trong nước, và doanh số bán hàng NEV thương mại trong nước chiếm 18,4% tổng doanh số bán hàng xe thương mại trong nước. Về xe chở khách NEV, từ tháng 1 đến tháng 3, doanh số bán hàng trong tất cả các phân khúc đều tăng trưởng ở các mức độ khác nhau, với doanh số bán hàng chủ yếu tập trung ở phân khúc A và B, lần lượt đạt 881.000 và 785.000 chiếc, tăng lần lượt 40,4% và 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Các thương hiệu NEV cao cấp của Trung Quốc tiếp tục phát triển nhanh chóng, tăng đáng kể tỷ lệ NEV cao cấp, dẫn đầu nâng cấp tiêu dùng. Về phân khúc giá, từ tháng 1 đến tháng 3, doanh số bán hàng trong phân khúc giá từ 300.000 đến 500.000 nhân dân tệ giảm so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi doanh số bán hàng trong các phân khúc giá khác đều tăng trưởng tích cực. Doanh số bán hàng vẫn chủ yếu tập trung ở phân khúc giá từ 150.000 đến 200.000 nhân dân tệ, đạt 703.000 chiếc, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Về xếp hạng doanh số bán hàng, từ tháng 1 đến tháng 3, 10 tập đoàn doanh nghiệp hàng đầu về doanh số bán hàng NEV đạt tổng cộng 2,594 triệu chiếc, tăng 49,4% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 84,4% tổng doanh số bán hàng NEV, tăng 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Về xuất khẩu, trong tháng 3, xuất khẩu NEV của Trung Quốc đạt 158.000 chiếc, tăng 20,1% so với tháng trước và 26,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu NEV chở khách đạt 149.000 chiếc, tăng 19,3% so với tháng trước và 21,6% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu NEV thương mại đạt 9.000 chiếc, tăng 33,6% so với tháng trước và gấp 3,1 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, xuất khẩu NEV của Trung Quốc đạt 441.000 chiếc, tăng 43,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu NEV chở khách đạt 419.000 chiếc, tăng 39,6% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu NEV thương mại đạt 23.000 chiếc, tăng gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, trong tháng 3, xuất khẩu xe điện thuần túy (BEV) của Trung Quốc đạt 103.000 chiếc, tăng 26,4% so với tháng trước và 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu xe điện plug-in hybrid (PHEV) đạt 55.000 chiếc, tăng 10% so với tháng trước và gấp 1,3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, xuất khẩu BEV của Trung Quốc đạt 290.000 chiếc, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu PHEV đạt 152.000 chiếc, tăng gấp 1,6 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Trong quý I, lắp đặt pin điện của Trung Quốc đạt 130,2 GWh, tăng 52,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng ngày (11 tháng 4), Liên minh Đổi mới Công nghiệp Pin Điện Ô tô Trung Quốc đã công bố dữ liệu pin điện hàng tháng cho tháng 3 năm 2025. Về sản xuất, trong tháng 3, sản lượng pin điện và các loại pin khác của Trung Quốc đạt 118,3 GWh, tăng 18,0% so với tháng trước và 54,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, sản lượng pin điện và các loại pin khác của Trung Quốc đạt 326,3 GWh, tăng 74,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Về doanh số bán hàng, trong tháng 3, doanh số bán hàng pin điện và các loại pin khác của Trung Quốc đạt 115,4 GWh, tăng 28,3% so với tháng trước và 64,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, doanh số bán hàng pin điện đạt 87,5 GWh, chiếm 75,8% tổng doanh số bán hàng, tăng 30,7% so với tháng trước và 46,9% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi doanh số bán hàng các loại pin khác đạt 28,0 GWh, chiếm 24,2% tổng doanh số bán hàng, tăng 21,0% so với tháng trước và 166,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, doanh số bán hàng pin điện và các loại pin khác của Trung Quốc đạt 285,8 GWh, tăng 73,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, doanh số bán hàng pin điện đạt 217,3 GWh, chiếm 76,0% tổng doanh số bán hàng, tăng 51,3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi doanh số bán hàng các loại pin khác đạt 68,5 GWh, chiếm 24,0% tổng doanh số bán hàng, tăng 228,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Về xuất khẩu, trong tháng 3, xuất khẩu pin điện và các loại pin khác của Trung Quốc đạt 23,0 GWh, tăng 8,8% so với tháng trước và 75,3% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 19,9% tổng doanh số bán hàng hàng tháng. Trong đó, xuất khẩu pin điện đạt 13,9 GWh, chiếm 60,5% tổng xuất khẩu, tăng 8,6% so với tháng trước và 11,3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu các loại pin khác đạt 9,1 GWh, chiếm 39,5% tổng xuất khẩu, tăng 9,2% so với tháng trước và tăng đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, xuất khẩu pin điện và các loại pin khác của Trung Quốc đạt 61,5 GWh, tăng 91,2% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 21,5% tổng doanh số bán hàng trong ba tháng đầu năm. Trong đó, xuất khẩu pin điện đạt 37,8 GWh, chiếm 61,4% tổng xuất khẩu, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi xuất khẩu các loại pin khác đạt 23,7 GWh, chiếm 38,6% tổng xuất khẩu, tăng đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái. Về lắp đặt, trong tháng 3, lắp đặt pin điện của Trung Quốc đạt 56,6 GWh, tăng 62,3% so với tháng trước và 61,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, lắp đặt pin lithium-ion (LFP) đạt 46,6 GWh, chiếm 82,3% tổng lắp đặt, tăng 63,9% so với tháng trước và 97,0% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi lắp đặt pin lithium-ion (LFP) đạt 46,6 GWh, chiếm 82,3% tổng lắp đặt, tăng 63,9% so với tháng trước và 97,0% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 3, lắp đặt pin điện của Trung Quốc đạt 130,2 GWh, tăng 52,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, lắp đặt pin lithium-ion (LFP) đạt 25,0 GWh, chiếm 19,2% tổng lắp đặt, giảm 19,0% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi lắp đặt pin lithium-ion (LFP) đạt 105,2 GWh, chiếm 80,8% tổng lắp đặt, tăng 93,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong quý I, lượng tăng thêm cơ sở hạ tầng sạc đạt 931.000 đơn vị, tăng 30,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Về hoạt động cơ sở hạ tầng sạc công cộng, trong tháng 3 năm 2025, số lượng cọc sạc công cộng tăng 67.000 đơn vị so với tháng 2 năm 2025, tăng 34,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến tháng 3 năm 2025, tổng số lượng cọc sạc công cộng do các thành viên liên minh báo cáo đạt 3,9 triệu, bao gồm 1,785 triệu cọc sạc DC và 2,114 triệu cọc sạc AC. Từ tháng 4 năm 2024 đến tháng 3 năm 2025, lượng tăng trung bình hàng tháng của cọc sạc công cộng là khoảng 83.000 đơn vị. Về hoạt động cơ sở hạ tầng sạc công cộng theo tỉnh, khu vực và thành phố, 10 khu vực hàng đầu bao gồm Quảng Đông, Chiết Giang, Giang Tô, Thượng Hải, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Hồ Bắc, Tứ Xuyên và Bắc Kinh chiếm 67,9% tổng số lượng cọc sạc công cộng. Lượng sạc quốc gia chủ yếu tập trung ở Quảng Đông, Giang Tô, Hà Bắc, Tứ Xuyên, Chiết Giang, Thượng Hải, Sơn Đông, Phúc Kiến, Hà Nam và Thiểm Tây, với dòng điện chính chảy vào xe buýt và xe chở khách, trong khi các loại xe khác như xe vận tải vệ sinh và xe taxi chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ. Trong tháng 3 năm 2025, tổng lượng sạc quốc gia là khoảng 5,87 tỷ kWh, tăng 3,5 tỷ kWh so với tháng trước, tăng 55,1% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 6,4% so với tháng trước. Về hoạt động cơ sở hạ tầng sạc công cộng theo nhà điều hành, tính đến tháng 3 năm 2025, 15 nhà điều hành sạc hàng đầu về số lượng cọc sạc đang vận hành là: Teld (746.000), Star Charge (659.000), Yunkuaichong (613.000), Xiaoju Charging (231.000), Weijing Cloud (215.000), State Grid (196.000), Lvchongchong (116.000), Shenzhen CEGN (94.000), China Southern Power Grid (90.000), Huichong (90.000), Ewe Energy (79.000), Wancheng Wanchong (55.000), Weilan Kuaichong (52.000), Kunlun Wangdian (50.000) và Junyue Charging (47.000). 15 nhà điều hành này chiếm 85,5% tổng số lượng, trong khi các nhà điều hành còn lại chiếm 14,5%. Về hoạt động tổng thể cơ sở hạ tầng sạc, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, lượng tăng thêm cơ sở hạ tầng sạc đạt 931.000 đơn vị, tăng 30,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, lượng tăng thêm cọc sạc công cộng là 321.000 đơn vị, tăng 75,3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi lượng tăng thêm cọc sạc riêng được lắp đặt với xe là 611.000 đơn vị, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến tháng 3 năm 2025, tổng số lượng cơ sở hạ tầng sạc của Trung Quốc đạt 13,749 triệu đơn vị, tăng 47,6% so với cùng kỳ năm ngoái.Về mặt so sánh giữa cơ sở hạ tầng sạc và xe điện, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, lượng tăng thêm của cơ sở hạ tầng sạc là 931.000 đơn vị, trong khi doanh số bán xe năng lượng mới (NEV) trong nước là 2,633 triệu đơn vị, cho thấy cả cơ sở hạ tầng sạc và xe NEV đều tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng. Tỷ lệ tăng thêm cột sạc so với tăng thêm xe là 1:2,8, cho thấy việc xây dựng cơ sở hạ tầng sạc về cơ bản có thể đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của xe NEV.
  • Tin tức chọn lọc
  • Coban & Liti
  • Coban & Liti
Trò chuyện trực tiếp qua WhatsApp
Giúp chúng tôi biết ý kiến của bạn trong 1 phút.