Theo số liệu từ Tổng c cục Thống kê (NBS), tháng 11 năm 2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn quốc tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, khu vực thành thị tăng 0,7%, nông thôn tăng 0,4%; giá lương thực tăng 0,2%, giá phi lương thực tăng 0,8%; giá hàng tiêu dùng tăng 0,6%, giá dịch vụ tăng 0,7%. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 11, CPI toàn quốc giữ ổn định so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng 11, CPI toàn quốc giảm 0,1% so với tháng trước. Cụ thể, thành thị giảm 0,1%, nông thôn giữ nguyên; giá lương thực tăng 0,5%, giá phi lương thực giảm 0,2%; giá hàng tiêu dùng tăng 0,1%, giá dịch vụ giảm 0,4%.
Tháng 11, dưới tác động của các yếu tố như tối ưu hóa cơ cấu cung-cầu trong một số ngành công nghiệp nội địa và lan t tỏa giá hàng hóa quốc tế, chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng 0,1% so với tháng trước và giảm 2,2% so với cùng kỳ.
Bà Đổng Lệ Quyên, Chuyên gia thống kê chính của Cục Xã hội Đô thị thuộc Tổng c cục Thống kê, đã phân tích số liệu CPI và PPI tháng 11/2025.
Giá tiêu dùng tháng 11/2025 tăng 0,7% so với cùng kỳ
Tháng 11/2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn quốc tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, khu vực thành thị tăng 0,7%, nông thôn tăng 0,4%; giá lương thực tăng 0,2%, giá phi lương thực tăng 0,8%; giá hàng tiêu dùng tăng 0,6%, giá dịch vụ tăng 0,7%. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 11, CPI toàn quốc giữ ổn định so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong tháng 11, CPI toàn quốc giảm 0,1% so với tháng trước. Cụ thể, thành thị giảm 0,1%, nông thôn giữ nguyên; giá lương thực tăng 0,5%, giá phi lương thực giảm 0,2%; giá hàng tiêu dùng tăng 0,1%, giá dịch vụ giảm 0,4%.

I. Biến động giá các mặt hàng và dịch vụ so với cùng kỳ
Tháng 11, giá thực phẩm, thuốc lá và đồ uống tăng 0,3% so với cùng kỳ, đóng góp khoảng 0,09 điểm phần trăm vào mức tăng CPI. Trong nhóm thực phẩm, giá rau tươi tăng 14,5%, đóng góp khoảng 0,31 điểm; giá thủy sản tăng 1,5%, đóng góp khoảng 0,03 điểm; giá trái cây tươi tăng 0,7%, đóng góp khoảng 0,01 điểm; giá trứng giảm 12,5%, làm giảm CPI khoảng 0,08 điểm; giá thịt gia súc giảm 6,6%, làm giảm khoảng 0,2 điểm, trong đó giá thịt lợn giảm 15,0%, làm giảm khoảng 0,21 điểm; giá ngũ cốc giảm 0,4%, làm giảm khoảng 0,01 điểm.
Trong bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại, giá cả tăng ở năm nhóm, giữ nguyên ở một nhóm và giảm ở một nhóm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá các mặt hàng và dịch vụ khác, đồ dùng và dịch vụ gia đình, và quần áp tăng lần lượt 14,2%, 2,1% và 1,9%; giá chăm sóc sức khỏe, và giáo dục, văn hóa, và giải trí tăng lần lượt 1,6% và 0,8%; giá nhà ở giữ nguyên; và giá giao thông và liên lạc giảm 2,3%.

II. Biến động giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ theo tháng
Trong tháng 11, giá thực phẩm, thuốc lá, và đồ uống có c cồn tăng 0,3% so với tháng trước, đóng góp khoảng 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng CPI. Trong nhóm thực phẩm, giá rau tươi tăng 7,2%, đóng góp khoảng 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng CPI; giá thủy sản giảm 1,8%, kéo CPI giảm khoảng 0,03 điểm phần trăm; giá trứng giảm 1,8%, làm giảm CPI khoảng 0,01 điểm phần trăm; giá thịt gia súc giảm 1,0%, kéo CPI giảm khoảng 0,03 điểm phần trăm, trong đó giá thịt lợn giảm 2,2%, đóng góp khoảng 0,03 điểm phần trăm vào mức giảm CPI; và giá trái cây tươi giảm 0,3%, kéo CPI giảm khoảng 0,01 điểm phần trăm.
Trong bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại, giá cả tăng ở ba nhóm và giảm ở bốn nhóm so với tháng trước. Cụ thể, giá các mặt hàng và dịch vụ khác, quần áo, và chăm sóc sức khỏe tăng lần lượt 1,2%, 0,7% và 0,1%; giá giao thông và liên lạc, và giáo dục, văn hóa, và giải trí giảm lần lượt 0,9% và 0,8%; và giá đồ dùng và dịch vụ gia đình, và nhà ở giảm lần lượt 0,4% và 0,1%.


Giá xuất xưưởng của nhà sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng so với tháng trước vào tháng 11 năm 2025
Trong tháng 11 năm 2025, giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp trên toàn quốc giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước, trong khi giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước; cả giá xuất xưởng và giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp đều tăng 0,1% so với tháng trước, mức tăng tương đương tháng trước. Tính trung bình từ tháng 1 đến tháng 11, giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi giá mua vào giảm 3,1%.


I. Biến động giá sản xuất công nghiệp so với cùng kỳ năm trước
Tháng 11, trong giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp, giá tư liệu sản xuất giảm 2,4%, kéo mức giá xuất xưưởng chung giảm khoảng 1,79 điểm phần trăm. Trong đó, giá khai khoáng giảm 6,1%, giá nguyên liệu thô giảm 2,9%, giá ngành chế biến giảm 1,9%. Giá tư liệu sinh hoạt giảm 1,5%, đóng góp khoảng 0,38 điểm phần trăm vào mức giảm giá xuất xưưởng chung. Trong đó, giá thực phẩm giảm 1,5%, giá quần áo giảm 0,3%, giá hàng tiêu dùng thông thường tăng 1,1%, giá hàng tiêu dùng lâu bền giảm 3,6%.


Trong giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp, giá nhiên liệu, động lực giảm 6,9%, giá vật liệu xây dựng và phi kim loại giảm 5,8%, giá nguyên liệu hóa chất giảm 5,0%, giá nông sản và sản phẩm phụ giảm 4,9%, giá kim loại đen giảm 3,0%, giá nguyên liệu dệt may giảm 1,9%; giá kim loại màu và dây điện tăng 8,1%.
II. Biến động giá sản xuất công nghiệp so với tháng trước
Tháng 11, trong giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp, giá tư liệu sản xuất tăng 0,1%, thúc đẩy mức giá xuất xưởng chung tăng khoảng 0,08 điểm phần trăm. Trong đó, giá ngành khai khoáng tăng 1,7%, giá ngành nguyên liệu thô giảm 0,2%, giá ngành chế biến tăng 0,1%. Giá hàng tiêu dùng sinh hoạt không đổi. Trong đó, giá thực phẩm giảm 0,1%, giá quần áo tăng 0,1%, giá hàng tiêu dùng hàng ngày thông thường tăng 0,2%, giá hàng tiêu dùng lâu bền giảm 0,2%.
Trong giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp, giá kim loại màu và dây điện tăng 1,8%, giá vật liệu xây dựng và phi kim loại tăng 0,2%, giá nhiên liệu, động lực tăng 0,1%; giá nguyên liệu hóa chất giảm 0,6%, giá nông sản và sản phẩm phụ cùng giá nguyên liệu dệt may đều giảm 0,3%, giá kim loại đen giảm 0,2%.

Chỉ số CPI tháng 11/2025 mở rộng tăng so với cùng kỳ, CPI cốt lõi tiếp tục tăng
—Bà Đổng Lệ Quyên, Cục trưởng Cục Thành thị Tổng cục Thống kê, giải thích số liệu CPI và PPI tháng 11/2025
Tháng 11, tiêu dùng hộ gia đình tiếp tục phục hồi. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái. CPI lõi, loại trừ lương thực và năng lượng, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Dưới tác động của các yếu tố như cấu trúc cung-cầu được tối ưu hóa trong một số ngành công nghiệp nội địa và sự lan truyền của giá hàng hóa quốc tế, Chỉ số giá sản xuất (PPI) cho các nhà sản xuất công nghiệp tăng 0,1% so với tháng trước nhưng giảm 2,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
I. Tăng trưưởng CPI So với Cùng kỳ Năm ngoái Mở rộng, CPI Lõi Tăng 1,2%
CPI tăng 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái, với tốc độ tăng trưởng mở rộng 0,5 điểm phần trăm so với tháng trước, đánh dấu mức cao nhất kể từ tháng 3 năm 2024. Sự mở rộng trong tăng trưưởng so với cùng kỳ năm ngoái chủ yếu được thúc đẩy bởi giá lương thực chuyển từ giảm sang tăng.Giá lương thực chuyển từ mức giảm 2,9% trong tháng trước sang mức tăng 0,2%, thay đổi tác động của chúng lên CPI so với cùng kỳ năm ngoái từ mức kéo giảm 0,54 điểm phần trăm tháng trước sang mức kéo tăng 0,04 điểm phần trăm. Trong các mặt hàng lương thực, giá rau tươi chuyển từ mức giảm 7,3% trong tháng trước sang mức tăng 14,5%, đánh dấu lần tăng đầu tiên sau chín tháng liên tiếp giảm, làm tăng tác động kéo tăng của chúng lên CPI so với cùng kỳ năm ngoái khoảng 0,49 điểm phần trăm so với tháng trước; giá trái cây tươi chuyển từ mức giảm 2,0% sang mức tăng 0,7%; giá thịt bò và thịt c cừu tăng lần lượt 6,2% và 3,7%, với cả hai tốc độ tăng trưởng đều mở rộng; giá thịt lợn và gia cầm giảm lần lượt 15,0% và 0,6%, với cả hai tốc độ giảm đều thu hẹp. Giá năng lượng giảm 3,4%, với mức giảm mở rộng 1,0 điểm phần trăm so với tháng trước, trong đó mức giảm giá xăng dầu mở rộng lên 7,5%. CPI lõi, loại trừ giá lương thực và năng lượng, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm ngoái, với mức tăng duy trì trên 1% trong ba tháng liên tiếp. Giá dịch vụ và hàng tiêu dùng công nghiệp loại trừ năng lượng tăng lần lượt 0,7% và 2,1%, đóng góp khoảng 0,29 và 0,53 điểm phần trăm vào mức tăng so với cùng kỳ năm ngoái của CPI. Trong đó, các chính sách và biện pháp mở rộng nhu cầu nội địa tiếp tục phát huy hiệu quả, với giá đồ gia dụng và quần áo tăng lần lượt 4,9% và 2,0%, và giá vé máy bay, dịch vụ gia đình, và ăn uống ngoài tăng lần lượt 7,0%, 2,4%, và 1,2%. Mức tăng giá trang sức vàng mở rộng lên 58,4%. Bên cạnh đó, giá ô tô chở khách chạy xăng dầu và ô tô năng lượng mới lần lượt giảm 2,5% và 2,4%.
CPI giảm 0,1% so với tháng trước, chủ yếu do ảnh hưởng của mức giảm theo mùa của giá dịch vụ. Giá dịch vụ giảm 0,4%, đóng góp khoảng 0,16 điểm phần trăm vào mức giảm CPI so với tháng trước. Trong đó, nhu cầu du lịch sau kỳ nghỉ giảm theo mùa, giá lưu trú khách sạn, vé máy bay, phí dịch vụ lữ hành và phí thuê xe lần lượt giảm 10,4%, 10,2%, 6,2% và 3,6%, cùng đóng góp khoảng 0,13 điểm phần trăm vào mức giảm CPI so với tháng trước; do thị trường cho thuê nhà bước vào mùa thấp điểm, giá thuê nhà giảm 0,2%. Chịu ảnh hưưởng từ biến động giá dầu quốc tế, giá xăng trong nước giảm 2,2%, đóng góp khoảng 0,07 điểm phần trăm vào mức giảm CPI so với tháng trước. Giá hàng tiêu dùng công nghiệp không bao gồm năng lượng tăng 0,3%, trong đó giá trang sức vàng trong nước tăng 7,3% do biến động giá vàng quốc tế, và giá quần áo tăng 0,8% do ra mắt bộ sưu tập mùa đông mới. Giá thực phẩm tăng 0,5%, cao hơn 0,9 điểm phần trăm so với mức theo mùa, chủ yếu do giá rau tươi tăng. Mưa và lạnh ở một số khu vực ảnh hưưởng đến sản xuất, bảo quản và vận chuyển rau tươi, dẫn đến giá rau tươi tăng 7,2%, cao hơn đáng kể so với mức giảm trung bình theo mùa là 3,2%, đóng góp khoảng 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng CPI so với tháng trước; với nguồn cung thị trường tương đối dồi dào, giá thịt lợn, trứng và thủy sản lần lượt giảm 2,2%, 2,1% và 1,8%, cùng đóng góp khoảng 0,07 điểm phần trăm vào mức giảm CPI so với tháng trước.
II. PPI Tăng So Với Tháng Trước Liên Tiếp Tháng Thứ Hai, Mức Giảm So Với Cùng Kỳ Mở Rộng Nhẹ
PPI tăng 0,1% so với tháng trước, đánh dấu hai tháng liên tiếp tăng. Đặc điểm chính của biến động PPI so với tháng trước trong tháng này là: thứ nhất, nhu cầu theo mùa tăng ở một số ngành trong nước thúc đẩy giá tăng. Do các khu vực bắt đầu chuẩn bị cho "cao điểm mùa đông", nhu cầu than và khí đốt tăng theo mùa, giá khai thác và rửa than tăng 4,1% so với tháng trước, giá chế biến than tăng 3,4%, và giá sản xuất và cung cấp khí đốt tăng 0,7%. Kể từ khi mùa đông bắt đầu, các sản phẩm thời tiết lạnh đã bước vào mùa tiêu thụ cao điểm, với giá sản xuất hàng dệt len tăng 0,6% và giá sản xuất sản phẩm lông vũ tăng 0,2%. Thứ hai, các yếu tố nhập khẩu đã ảnh hưưởng đến xu hướng giá khác biệt trong các ngành công nghiệp kim loại màu và dầu khí trong nước. Sự gia tăng giá kim loại màu quốc tế dẫn đến mức tăng 2,6% theo tháng về giá khai thác quặng kim loại màu trong nước, và mức tăng 2,1% về giá gia công luyện kim và cán kim loại màu, với giá luyện đồng, luyện vàng và luyện nhôm lần lượt tăng 2,9%, 1,4% và 0,2%. Việc giảm giá dầu quốc tế dẫn đến mức giảm 2,4% về giá khai thác dầu và khí đốt tự nhiên trong nước, và mức giảm 2,2% về giá sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế.
Chỉ số giá sản xuất (PPI) giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước, với mức giảm mở rộng thêm 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước, chủ yếu do cơ sở so sánh cao hơn từ cùng kỳ năm ngoái. Các chính sách vĩ mô đa dạng của Trung Quốc tiếp tục cho thấy hiệu quả, dẫn đến những thay đổi tích cực về giá. Thứ nhất, việc chấn chỉnh toàn diện cạnh tranh "nội bộ" đã cho thấy kết quả, với mức giảm so với cùng kỳ về giá các ngành công nghiệp liên quan thu hẹp. Việc quản lý năng lực đang diễn ra trong các ngành công nghiệp trọng điểm liên tục tối ưu hóa trật tự cạnh tranh thị trường, với mức giảm so với cùng kỳ về giá khai thác và rửa than, sản xuất thiết bị và linh kiện quang điện, và sản xuất pin lithium-ion thu hẹp lần lượt 3,8, 2,0 và 0,7 điểm phần trăm, tất cả đều thu hẹp trong nhiều tháng liên tiếp; mức giảm so với cùng kỳ về giá sản xuất xe hơi mới năng lượng cũng thu hẹp 0,6 điểm phần trăm. Thứ hai, sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp mới nổi đã thúc đẩy mức tăng so với cùng kỳ về giá các ngành công nghiệp liên quan. Với sự tăng trưưởng nhanh chóng của các ngành công nghiệp vật liệu mới, AI hiện thân và các ngành khác của Trung Quốc, và sự chuyển đổi xanh và carbon thấp ngày càng sâu sắc, nhu cầu trong các lĩnh vực liên quan đã tăng lên, với giá linh kiện và thiết bị lưu trữ ngoài tăng 13,9% so với cùng kỳ, giá sản xuất sản phẩm graphit và carbon tăng 3,8%, giá sản xuất mạch tích hợp tăng 1,7%, giá sản xuất robot tiêu dùng dịch vụ tăng 1,1%, giá động cơ vi điều khiển tăng 0,4%, và giá ngành công nghiệp tái chế t tổng hợp tài nguyên thải tăng 0,4%. Về thứ ba, việc giải phóng hiệu quả tiềm năng tiêu dùng đã thúc đẩy sự phục hồi và cải thiện theo năm của giá cả các ngành công nghiệp liên quan. Hiệu quả liên tục của hành động đặc biệt thúc đẩy tiêu dùng đã làm mới và nâng cao nhu cầu tiêu dùng, với giá sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và hàng hóa nghi lễ tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước, giá sản xuất bóng thể thao tăng 4,3%, và giá sản xuất thực phẩm dinh dưỡng tăng 1,1%; mức giảm theo năm của giá sản xuất máy giặt gia đình, truyền hình và điều hòa không khí phòng thu hẹp lần lượt 3,7, 0,5 và 0,1 điểm phần trăm.



