Tin ngày 4 tháng 12:
Quặng đất hiếm:
Hôm nay, giá carbonate đất hiếm dao động trong khoảng 47.300 - 47.800 nhân dân tệ/tấn, giá monazite điều chỉnh về mức 53.400 - 55.000 nhân dân tệ/tấn, giá quặng yttrium trung bình giàu europium ở mức khoảng 212.000 - 214.000 nhân dân tệ/tấn. Gần đây, t tỷ lệ vận hành của các doanh nghiệp tách quặng giảm mạnh, khiến việc tiêu thụ sản phẩm quặng đất hiếm khó khăn hơn, giao dịch thị trường ngày càng trầm lắng.
Oxit đất hiếm:
Gần đây, giá oxit lanthanum không biến động lớn, duy trì ổn định ở mức 4.300 - 4.700 nhân dân tệ/tấn, trong khi giá oxit cerium tuần này giảm nhẹ, điều chỉnh về 11.000 - 12.000 nhân dân tệ/tấn. Tuy nhiên, hầu hết các đối tác ngành cho rằng giá oxit cerium sẽ dao động nhẹ trong phạm vi hiện tại, không dự kiến giảm mạnh. Giá oxit praseodymium-neodymium tuần này tăng trước rồi giảm sau. Do các đánh giá môi trường và hạn ngạch, một số nhà máy tách quặng đã tạm dừng sản xuất vào tháng 12, điều này sẽ dẫn đến nguồn cung oxit praseodymium-neodymium thắt chặt đáng kể. Trong bối cảnh cân đối cung-cầu oxit praseodymium-neodymium vốn đã căng thẳng, niềm tin của nhà cung cấp vào thị trường tương lai được củng cố, chào bán oxit praseodymium-neodymium nhanh chóng tăng lên 600.000 nhân dân tệ/tấn. Tuy nhiên, do theo sau không đủ từ hạ nguồn và khó khăn trong ký kết giao dịch giá cao, giá oxit praseodymium-neodymium đã giảm nhẹ về mức 585.000 - 590.000 nhân dân tệ/tấn. Tuần này, giá oxit dysprosium tiếp tục giảm sâu. Mặc dù nguồn cung oxit dysprosium trên thị trường cũng giảm so với tuần trước ở mức độ nào đó, tình trạng dư cung vẫn chưa được cải thiện, cùng với nhu cầu hạ nguồn tiếp tục yếu, giá oxit dysprosium được điều chỉnh giảm so với tuần trước xuống 1,42 - 1,43 triệu nhân dân tệ/tấn. Bầu không khí giao dịch thị trường oxit terbium vẫn trầm lắng, một số nhà cung cấp chủ động hạ giá chào bán, nhưng việc nhận đơn hàng hạ nguồn vẫn kém. Tính đến nay, giá chào bán của nó được điều chỉnh giảm xuống 6,4 - 6,43 triệu nhân dân tệ/tấn. Giá thị trường oxit holmium cũng tiếp tục ảm đạm, nhưng biên độ dao động tuần này tương đối nhỏ; hôm nay, giá của nó điều chỉnh về khoảng 488.000 - 498.000 nhân dân tệ/tấn. Giá oxit erbi duy trì ổn định, dao động trong khoảng 346.000-352.000 nhân dân tệ/tấn tuần này. Giá oxit yttrium cũng giữ vững ở mức 45.000-47.000 nhân dân tệ/tấn, thị trường ít biến động.
Kim loại Đất Hiếm:
Tuần này, giá hợp kim Pr-Nd tăng trước rồi giảm sau, nhưng vẫn ghi nhận mức tăng đáng kể so với tuần trước. Tính đến hiện tại, giá hợp kim Pr-Nd đã tăng lên 710.000-720.000 nhân dân tệ/tấn. Đầu tuần, dưới tác động của thông tin một số nhà máy tách quặng ngừng sản xuất, nguồn cung oxit Pr-Nd dự kiến giảm mạnh, thúc đẩy tâm lý lạc quan trên thị trường. Ý muốn bán ở mức giá thấp của các nhà cung cấp suy yếu, dẫn đến sự tăng nhanh chóng trong chào giá hợp kim Pr-Nd. Tuy nhiên, do giá tăng quá nhanh, các doanh nghiệp vật liệu từ phía hạ nguồn chấp nhận kim loại giá cao hạn chế, khiến giao dịch hợp kim Pr-Nd tuần này kém hiệu quả. Kết quả là, một số nhà cung cấp t tỏ ra e ngại giá cao và chủ động giảm giá để bán, dẫn đến sự điều chỉnh giảm của giá hợp kim Pr-Nd. Dù vậy, được hỗ trợ bởi chi phí oxit Pr-Nd, các chào giá từ doanh nghiệp kim loại vẫn tương đối vững, với mức giảm thực tế hạn chế. Trên thị trường đất hiếm trung-nặng, kim loại terbium kết thúc ở mức 7,98-8 triệu nhân dân tệ/tấn, trong khi hợp kim dysprosium-sắt đóng ở 1,4-1,41 triệu nhân dân tệ/tấn. Tuần này, nhu cầu mua hàng từ hạ nguồn vẫn yếu, các thăm dò thị trường không cải thiện, giá tiếp tục trì trệ, và tâm lý giao dịch thị trường uể oải.
Nam châm Vĩnh cửu Đất Hiếm
Hiện tại, phôi NdFeB N38 (Ce) đóng ở 203-213 nhân dân tệ/kg; phôi NdFeB 40M đóng ở 249-259 nhân dân tệ/kg; phôi NdFeB 40H đóng ở 253-263 nhân dân tệ/kg; phôi NdFeB 45SH (Ce) đóng ở 303-323 nhân dân tệ/kg.
Về giá, so với tuần trước, giá NdFeB cho thấy xu hướng tăng rõ rệt, chủ yếu được thúc đẩy bởi sự tăng nhanh của giá oxit Pr-Nd và kim loại, đẩy giá vật liệu từ tăng nhanh. Về giao dịch, hoạt động thị trường tuần này ở mức vừa phải. Do giá nguyên liệu tăng quá nhanh, người dùng cuối trong nước chủ yếu áp dụng thái độ chờ đợi, không dễ dàng đặt hàng, có ý định bổ sung hàng tồn sau khi giá ổn định. Trong khi đó, cận kề cuối năm, việc tích trữ của hầu hết người dùng cuối về cơ bản đã kết thúc, nhu cầu c cứng không tăng đáng kể. Cùng với tháng Giáng sinh ở nước ngoài, t tỷ lệ vận hành t tổng thể không cao, dẫn đến nhu cầu giải phóng chậm và hoạt động giao dịch trên thị trường NdFeB ở mức vừa phải.
Phế liệu Đất Hiếm:
Tuần này, Pr-Nd tái chế từ phế liệu NdFeB chốt ở mức 605-615 nghìn đồng/kg; dysprosium tái chế từ phế liệu NdFeB chốt ở mức 1.460-1.480 nghìn đồng/kg; terbium tái chế từ phế liệu NdFeB chốt ở mức 5.300-5.500 nghìn đồng/kg.
Tuần này, giá phế liệu Pr-Nd tăng mạnh, chủ yếu chịu ảnh hưưởng từ thông tin một số doanh nghiệp tách quặng tạm dừng sản xuất, điều này sẽ dẫn đến việc cung cấp oxit Pr-Nd giảm rõ rệt. Các doanh nghiệp tái chế chủ động nâng giá chào mua phế liệu và tích cực thu mua. Tuy nhiên, do giá tăng nhanh, giao dịch trên thị trường oxit diễn ra kém, và các doanh nghiệp tái chế bắt đầu kiểm soát khối lượng thu mua phế liệu, hạ giá chào mua phế liệu Pr-Nd. Ý muốn bán ra của nhà cung cấp tăng cường, và khối lượng lưu thông trên thị trường tăng đáng kể so với tuần trước, với hoạt động giao dịch tổng thể trên thị trường phế liệu. Nhìn chung, do nguồn cung oxit Pr-Nd thắt chặt, ý muốn mua phế liệu của các doanh nghiệp tái chế được tăng cường, và giá chào mua tăng đáng kể.



