Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) gần đây đã xác nhận gia hạn 178 mặt hàng được loại trừ khỏi thuế quan Điều 301 đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, vốn dự kiến hết hạn vào cuối năm 2025, thêm một năm nữa, với thời gian hiệu lực mới kéo dài đến ngày 10 tháng 11 năm 2026. Việc gia hạn này bao gồm các linh kiện công nghiệp thông thường như bơm, van, bánh răng, vòng bi, động cơ nhỏ và bộ phận lọc, đồng thời cũng bao gồm các thành phần thiết bị chủ chốt cho quang điện, chất bán dẫn và thiết bị tự động hóa. Cơ cấu t tổng thể tiếp tục duy trì hệ thống loại trừ trước đó, tập trung vào các linh kiện cơ bản và thiết bị chuyên dụng cần thiết cho sản xuất công nghiệp, trong khi không bao gồm các vật liệu pin then chốt như cell pin, vật liệu cathode và anode, chất điện phân và màng ngăn.
Ở cấp độ ngành, tác động của đợt gia hạn miễn trừ này đối với chuỗi cung ứng năng lượng mới toàn cầu thể hiện những đặc điểm cấu trúc rõ rệt. Đối với các phân khúc sản xuất pin năng lượng và pin ESS, việc tiếp tục miễn trừ thuế bổ sung cho một số lượng lớn linh kiện then chốt sẽ trực tiếp làm giảm chi phí xây dựng dây chuyền sản xuất tại Hoa Kỳ. Việc giảm áp lực thuế ở khía cạnh thiết bị giúp giảm gánh nặng tài chính cho các nhà máy nội địa Mỹ trong việc bố trí công suất, nâng cấp thiết bị và chuyển đổi tự động hóa, h hỗ trợ các dự án liên quan tiến triển theo đúng lịch trình ban đầu. SMM ước tính rằng việc gia hạn miễn trừ có thể làm giảm chi phí vốn cho các dây chuyền sản xuất mới hoặc mở rộng từ 1%–5%, và khả năng cạnh tranh về giá của các nhà xuất khẩu thiết bị sẽ được tăng cường hơn nữa. Điều này cho thấy sự tham gia và ổn định của các doanh nghiệp thiết bị pin Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ tiếp tục gia tăng.
Trong khi đó, môi trường chính sách cho phân khúc vật liệu của chuỗi ngành hàng chưa có dấu hiệu nới lỏng đáng kể. Đợt gia hạn miễn trừ này không bao gồm chính cell pin hoặc các vật liệu cốt lõi của chúng, bao gồm cathode LFP, NCM, anode graphite, màng ngăn, chất điện phân, LiPF6, cũng như các nguyên liệu thô quan trọng như foil đồng và foil nhôm. Khi gia hạn miễn trừ cho phân khúc sản xuất, Hoa Kỳ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ việc các vật liệu Trung Quốc thâm nhập vào chuỗi cung ứng địa phương của mình thông qua các hạn chế về Thực thể Nước ngoài Đáng quan ngại (FEOC) theo Đạo luật Giảm lạm phát (IRA). Chính sách cho thấy Hoa Kỳ vẫn mở c cửa với "xây dựng năng lực" nhưng cảnh giác với "vật liệu chiến lược then chốt". Chiến lược kép này c củng cố mục tiêu dài hạn là thúc đẩy phát triển hệ thống vật liệu nội địa và tạo điều kiện cho việc địa phương hóa chuỗi cung ứng từ Nhật Bản và Hàn Quốc tại Hoa Kỳ. Trong ngắn hạn, khó khăn và chi phí cho doanh nghiệp vật liệu Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ chưa được cải thiện. Việc có nên xây dựng nhà máy tại Bắc Mỹ để vượt rào chính sách trong tương lai sẽ trở thành điểm quyết định chiến lược quan trọng của doanh nghiệp vật liệu.
Trên góc độ toàn cầu, sự kết hợp chính sách nới lỏng hạn chế với thiết bị sản xuất nhưng siết chặt kiểm soát vật liệu dẫn đến xu hướng phân công lao động mới trong chuỗi cung ứng năng lượng mới: Hoa Kỳ tiếp tục phụ thuộc vào thiết bị, linh kiện và khâu gia công trung gian từ Trung Quốc để đảm bảo hình thành nhanh công suất pin và ESS nội địa; song duy trì rào cản cao với vật liệu và pin xuất xứ Trung Quốc thông qua công cụ thương mại, cơ chế trợ cấp và chính sách địa chính trị. Việc gia hạn đợt miễn trừ này duy trì c cửa sổ hợp tác xuyên biên giới trong lĩnh vực sản xuất, nhưng làm gia tăng tính cạnh tranh trong ngành vật liệu.
Nhìn chung, với doanh nghiệp thiết bị sản xuất, đây là sự kéo dài cơ hội xuất khẩu; với thị trường Bắc Mỹ, đây là điều kiện cần để duy trì tốc độ mở rộng; còn với doanh nghiệp vật liệu, điều này cho thấy lập trường chính sách áp lực cao vẫn không đổi. Trong bối cảnh tái cấu trúc chuỗi cung ứng năng lượng mới toàn cầu được đẩy nhanh, doanh nghiệp Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì lợi thế ở mảng thiết bị, nhưng sẽ đối mặt với các quyết định tuân thủ và địa phương hóa tốn kém hơn, lâu dài hơn trong lĩnh vực vật liệu.



