Giá địa phương sắp được công bố, xin vui lòng chờ đợi!
Biết rồi
+86 021 5155-0306
Ngôn ngữ:  

Cục Thống kê Quốc gia (NBS): Tháng 6, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định tăng 6,8%, và giá trị gia tăng của ngành luyện kim và chế biến kim loại màu tăng 9,2%.

  • Th07 15, 2025, at 10:18 am

Tháng 6, tăng trưởng thực tế so với cùng kỳ năm trước (YoY) của giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định là 6,8%. So với tháng trước, giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định tăng 0,50% trong tháng 6. Từ tháng 1 đến tháng 6, tăng trưởng YoY của giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định là 6,4%.

Giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định vào tháng 6 năm 2025 tăng 6,8%.

Tháng 6, tăng trưởng thực tế so với cùng kỳ năm trước (YoY) của giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định là 6,8% (tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng đều là tốc độ tăng trưởng thực tế sau khi trừ đi các yếu tố giá cả). So với tháng trước, giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định tăng 0,50% trong tháng 6. Từ tháng 1 đến tháng 6, tăng trưởng YoY của giá trị gia tăng công nghiệp đối với các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định là 6,4%.

image

Theo ngành, tháng 6, giá trị gia tăng của ngành khai thác mỏ tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước, ngành chế tạo tăng 7,4%, và ngành sản xuất và cung cấp điện, nhiệt, khí đốt và nước tăng 1,8%.

Theo loại hình kinh tế, tháng 6, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước; các doanh nghiệp cổ phần tăng 7,1%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ Hồng Kông, Macao và Đài Loan tăng 5,5%; và các doanh nghiệp tư nhân tăng 6,2%.

Theo ngành công nghiệp, tháng 6, giá trị gia tăng của 36 trong số 41 ngành công nghiệp chính duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai thác và rửa than tăng 6,5%, ngành khai thác dầu mỏ và khí đốt tự nhiên tăng 3,6%, ngành chế biến thực phẩm nông nghiệp và phụ phẩm nông nghiệp tăng 8,2%, ngành chế tạo rượu, đồ uống và trà tinh chế tăng 3,4%, ngành dệt may tăng 2,5%, ngành chế tạo nguyên liệu hóa học và sản phẩm hóa học tăng 7,5%, ngành sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại giảm 0,1%, ngành luyện kim và chế biến kim loại màu tăng 4,1%, ngành luyện kim và chế biến kim loại không màu tăng 9,2%, ngành chế tạo thiết bị chung tăng 7,8%, ngành chế tạo thiết bị đặc biệt tăng 4,6%, ngành chế tạo ô tô tăng 11,4%, ngành chế tạo thiết bị giao thông vận tải đường sắt, đóng tàu, hàng không vũ trụ và các thiết bị giao thông vận tải khác tăng 10,1%, ngành chế tạo máy móc và thiết bị điện tăng 11,4%, ngành chế tạo máy tính, thiết bị thông tin liên lạc và các thiết bị điện tử khác tăng 11,0%, và ngành sản xuất và cung cấp điện và nhiệt tăng 1,6%.

Theo sản phẩm, trong tháng 6, sản lượng của 379 trong số 623 sản phẩm của các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thép là 127,84 triệu tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng xi măng là 155,47 triệu tấn, giảm 5,3%; sản lượng của 10 kim loại màu là 6,95 triệu tấn, tăng 4,4%; sản lượng ethylene là 2,85 triệu tấn, tăng 5,8%; sản lượng ô tô là 2,809 triệu chiếc, tăng 8,8%, trong đó có 1,234 triệu chiếc xe năng lượng mới, tăng 18,8%; sản lượng điện là 796,3 tỷ kWh, tăng 1,7%; và sản lượng chế biến dầu thô là 62,24 triệu tấn, tăng 8,5%.

Trong tháng 6, tỷ lệ tiêu thụ của các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định là 94,3%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Giá trị giao hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định đạt 1.367,6 tỷ nhân dân tệ, với mức tăng trưởng danh nghĩa so với cùng kỳ năm trước là 4,0%.

Nền kinh tế quốc gia đối mặt với thách thức và duy trì tăng trưởng ổn định trong nửa đầu năm

Trong nửa đầu năm, dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc với đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân, các khu vực và bộ ngành đã nghiêm túc thực hiện các quyết định và sắp xếp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện, tuân thủ nguyên tắc chung là theo đuổi tiến bộ trong khi đảm bảo ổn định, thực hiện đầy đủ và chính xác quan niệm phát triển mới, đẩy nhanh việc xây dựng mô hình phát triển mới, phối hợp công việc kinh tế trong nước với cuộc đấu tranh kinh tế và thương mại quốc tế, thực hiện có hiệu quả các chính sách vĩ mô chủ động và hiệu quả hơn. Nền kinh tế quốc gia đã chịu được áp lực, đối mặt với thách thức, duy trì sự ổn định tổng thể và tăng trưởng ổn định, với tăng trưởng ổn định trong sản xuất và nhu cầu, tình hình việc làm nói chung ổn định, thu nhập của người dân tiếp tục tăng, động lực mới tăng trưởng và mở rộng, có tiến bộ mới trong phát triển chất lượng cao và duy trì ổn định xã hội.

Theo tính toán sơ bộ, GDP trong nửa đầu năm là 66.053,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước theo giá cố định. Theo ngành, giá trị gia tăng của ngành sơ cấp là 3.117,2 tỷ nhân dân tệ, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước; giá trị gia tăng của ngành thứ cấp là 23.905 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước; và giá trị gia tăng của ngành thứ ba là 39.031,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Theo quý, GDP quý 1 tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước và quý 2 tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, GDP quý 2 tăng 1,1%.

I. Sản xuất ổn định và vụ mùa hè thu hoạch bội thu, tăng trưởng ổn định trong chăn nuôi

Trong nửa đầu năm, giá trị gia tăng của nông nghiệp (trồng trọt) tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lúa mùa hè cả nước là 149,74 triệu tấn, giảm 150.000 tấn, tương đương 0,1% so với năm trước. Trong nửa đầu năm, sản lượng thịt lợn, thịt bò, thịt cừu và thịt gia cầm là 48,43 triệu tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thịt lợn, thịt bò và thịt gia cầm tăng lần lượt là 1,3%, 4,5% và 7,4%, trong khi sản lượng thịt cừu giảm 4,6%. Sản lượng sữa tăng 0,5% và sản lượng trứng gia cầm tăng 1,5%. Cuối quý 2, tồn kho lợn sống là 424,47 triệu con, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong nửa đầu năm, số lượng lợn sống được giết mổ là 366,19 triệu con, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước.

II. Tăng trưởng nhanh chóng trong sản xuất công nghiệp, động lực tăng trưởng tốt trong sản xuất thiết bị và sản xuất công nghệ cao

Trong nửa đầu năm, giá trị gia tăng công nghiệp của các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định trên toàn quốc tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Theo ba ngành công nghiệp lớn, giá trị gia tăng của ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước, ngành sản xuất tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước và ngành sản xuất và cung cấp điện, nhiệt, khí đốt và nước tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị gia tăng của sản xuất thiết bị tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước và giá trị gia tăng của sản xuất công nghệ cao tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, với tốc độ tăng trưởng lần lượt nhanh hơn 3,8 và 3,1 điểm phần trăm so với tất cả các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định. Theo loại hình kinh tế, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp nhà nước tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; các doanh nghiệp cổ phần tăng 6,9%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan tăng 4,3%; các doanh nghiệp tư nhân tăng 6,7%. Theo sản phẩm, sản lượng thiết bị in 3D, xe năng lượng mới và robot công nghiệp lần lượt tăng 43,1%, 36,2% và 35,6% so với cùng kỳ năm trước. Vào tháng 6, giá trị gia tăng công nghiệp của các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước và 0,50% so với tháng trước. Vào tháng 6, chỉ số PMI sản xuất là 49,7%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước; chỉ số kỳ vọng về hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp là 52,0%. Từ tháng 1 đến tháng 5, các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định ở Trung Quốc đã đạt được tổng lợi nhuận là 2.720,4 tỷ nhân dân tệ, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

III. Tăng trưởng nhanh hơn trong lĩnh vực dịch vụ và phát triển lành mạnh của các ngành dịch vụ hiện đại

Trong nửa đầu năm, giá trị gia tăng của lĩnh vực dịch vụ tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý I. Trong đó, giá trị gia tăng của ngành dịch vụ truyền thông thông tin, phần mềm và công nghệ thông tin, ngành dịch vụ cho thuê và kinh doanh, ngành dịch vụ vận tải, lưu trữ và bưu chính, và ngành bán lẻ và bán buôn tăng lần lượt là 11,1%, 9,6%, 6,4% và 5,9%. Vào tháng 6, chỉ số sản xuất lĩnh vực dịch vụ quốc gia tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số sản xuất của ngành dịch vụ truyền thông thông tin, phần mềm và công nghệ thông tin, ngành dịch vụ cho thuê và kinh doanh, ngành tài chính và ngành bán lẻ và bán buôn tăng lần lượt là 11,6%, 8,4%, 7,3% và 6,9%. Từ tháng 1 đến tháng 5, doanh thu hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ trên quy mô chỉ định tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Vào tháng 6, chỉ số hoạt động kinh doanh của lĩnh vực dịch vụ là 50,1%, và chỉ số kỳ vọng về hoạt động kinh doanh của lĩnh vực dịch vụ là 56,0%. Trong đó, chỉ số hoạt động kinh doanh của các ngành như dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát thanh, truyền hình và truyền dẫn vệ tinh, dịch vụ phần mềm và công nghệ thông tin internet, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ thị trường vốn và bảo hiểm đều trên 55,0%, cho thấy mức độ thịnh vượng tương đối cao.

IV. Phục hồi trong tăng trưởng doanh số bán hàng thị trường và doanh số bán hàng tốt của các mặt hàng nâng cấp tiêu dùng

Trong nửa đầu năm, tổng doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng là 24.545,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý I. Theo vị trí của các đơn vị kinh doanh, doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng ở khu vực thành thị là 21.305 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước; doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng ở khu vực nông thôn là 3.240,9 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Theo loại hình tiêu dùng, doanh số bán lẻ hàng hóa là 21.797,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống là 2.748 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Doanh số bán hàng các mặt hàng thiết yếu và một số mặt hàng nâng cấp cho thấy xu hướng tăng trưởng tốt, với doanh số bán lẻ các mặt hàng ngũ cốc, dầu mỡ và thực phẩm, các mặt hàng thể thao và giải trí, và các mặt hàng vàng, bạc và trang sức tại các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định lần lượt tăng 12,3%, 22,2% và 11,3%. Chính sách đổi mới sản phẩm tiêu dùng tiếp tục cho thấy những hiệu quả tích cực, với doanh số bán lẻ các mặt hàng điện gia dụng, thiết bị âm thanh và hình ảnh, văn phòng phẩm, thiết bị liên lạc và đồ nội thất tại các đơn vị trên quy mô chỉ định lần lượt tăng 30,7%, 25,4%, 24,1% và 22,9%. Doanh số bán lẻ trực tuyến trên toàn quốc đạt 7.429,5 tỷ nhân dân tệ, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh số bán lẻ trực tuyến các mặt hàng vật chất đạt 6.119,1 tỷ nhân dân tệ, tăng 6,0% và chiếm 24,9% tổng doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng. Vào tháng 6, tổng doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,16% so với tháng trước. Trong nửa đầu năm, doanh số bán lẻ dịch vụ tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, tăng nhanh hơn 0,3 điểm phần trăm so với quý 1.

V. Đầu tư tài sản cố định tiếp tục mở rộng, với đầu tư sản xuất tăng nhanh

Trong nửa đầu năm, đầu tư tài sản cố định toàn quốc (không bao gồm hộ gia đình nông thôn) đạt 24.865,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Không bao gồm đầu tư phát triển bất động sản, đầu tư tài sản cố định toàn quốc tăng 6,6%. Theo ngành, đầu tư cơ sở hạ tầng tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, đầu tư sản xuất tăng 7,5% và đầu tư phát triển bất động sản giảm 11,2%. Diện tích bán nhà ở thương mại mới xây dựng trên toàn quốc là 458,51 triệu m², giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước và giá trị bán nhà ở thương mại mới xây dựng là 4.424,1 tỷ nhân dân tệ, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Theo ngành, đầu tư vào ngành sơ cấp tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, ngành thứ cấp tăng 10,2% và ngành thứ cấp giảm 1,1%. Đầu tư tư nhân giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Không bao gồm đầu tư phát triển bất động sản, đầu tư tư nhân khác tăng 5,1%. Trong các ngành công nghệ cao, đầu tư vào ngành dịch vụ thông tin, sản xuất hàng không, tàu vũ trụ và thiết bị, và sản xuất máy tính và thiết bị văn phòng lần lượt tăng 37,4%, 26,3% và 21,5% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 6, đầu tư tài sản cố định (không bao gồm hộ gia đình nông thôn) giảm 0,12% so với tháng trước.

VI. Xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục tăng, cơ cấu thương mại tiếp tục được tối ưu hóa

Trong 6 tháng đầu năm, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 21.787,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị xuất khẩu đạt 13.000 tỷ nhân dân tệ, tăng 7,2%; giá trị nhập khẩu đạt 8.787,5 tỷ nhân dân tệ, giảm 2,7%. Xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân tăng 7,3%, chiếm 57,3% tổng giá trị xuất nhập khẩu, tăng 2,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Xuất nhập khẩu với các quốc gia tham gia xây dựng chung "Vành đai và Con đường" tăng 4,7%. Xuất khẩu các sản phẩm cơ điện tăng 9,5%, chiếm 60,0% tổng giá trị xuất khẩu. Tháng 6, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 3.852,7 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị xuất khẩu đạt 2.339,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 7,2%; giá trị nhập khẩu đạt 1.513,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,3%.

VII. Giá tiêu dùng cơ bản ổn định, chỉ số CPI cơ bản tăng nhẹ trở lại

Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng toàn quốc (CPI) giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Theo loại mặt hàng, giá thực phẩm, thuốc lá và rượu giảm 0,3%; giá quần áo tăng 1,3%; giá nhà ở tăng 0,1%; giá hàng tiêu dùng và dịch vụ hàng ngày không thay đổi; giá giao thông và truyền thông giảm 2,9%; giá giáo dục, văn hóa và giải trí tăng 0,8%; giá y tế tăng 0,3%; giá các mặt hàng và dịch vụ khác tăng 6,7%. Trong giá thực phẩm, thuốc lá và rượu, giá rau tươi giảm 5,3%; giá ngũ cốc giảm 1,3%; giá trái cây tươi tăng 2,7%; giá thịt lợn tăng 3,8%. Tháng 6, chỉ số giá tiêu dùng toàn quốc (CPI) tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,1% so với tháng trước. Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số CPI cơ bản (không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng) tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý I. Trong đó, chỉ số CPI cơ bản tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước vào tháng 6, tăng 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước.

Trong 6 tháng đầu năm, giá xuất xưởng của các nhà sản xuất công nghiệp toàn quốc giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá mua giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,4% so với tháng trước vào tháng 6. Trong nửa đầu năm (H1), giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá mua giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,7% so với tháng trước vào tháng 6.

VIII. Tình hình việc làm vẫn ổn định nói chung, với tỷ lệ thất nghiệp thành phố được khảo sát giảm nhẹ.

Trong nửa đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp thành phố được khảo sát trung bình là 5,2%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý I. Vào tháng 6, tỷ lệ thất nghiệp thành phố được khảo sát toàn quốc là 5,0%. Tỷ lệ thất nghiệp được khảo sát đối với lao động đăng ký địa phương là 5,1%, trong khi tỷ lệ thất nghiệp đối với lao động di cư là 4,8%, và tỷ lệ thất nghiệp được khảo sát đối với lao động nông nghiệp di cư cũng là 4,8%. Tỷ lệ thất nghiệp thành phố được khảo sát tại 31 thành phố lớn là 5,0%. Số giờ làm việc trung bình hàng tuần của người có việc làm trong các doanh nghiệp là 48,5 giờ. Cuối quý II, tổng số lao động nông dân di cư là 191,39 triệu người, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.

IX. Thu nhập của cư dân tăng trưởng ổn định, với thu nhập của cư dân nông thôn tăng trưởng nhanh hơn so với cư dân thành phố.

Trong nửa đầu năm, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân toàn quốc là 21.840 nhân dân tệ, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước theo danh nghĩa và tăng 5,4% sau khi điều chỉnh theo yếu tố giá cả. Theo nơi cư trú, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân thành phố là 28.844 nhân dân tệ, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước theo danh nghĩa và tăng 4,7% sau khi điều chỉnh theo yếu tố giá cả; thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân nông thôn là 11.936 nhân dân tệ, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước theo danh nghĩa và tăng 6,2% sau khi điều chỉnh theo yếu tố giá cả. Từ góc độ nguồn thu nhập, thu nhập tiền lương bình quân đầu người, thu nhập hoạt động kinh doanh ròng, thu nhập tài sản ròng và thu nhập chuyển giao ròng của cư dân toàn quốc lần lượt tăng 5,7%, 5,3%, 2,5% và 5,6% theo danh nghĩa. Thu nhập khả dụng bình quân đầu người trung vị của cư dân toàn quốc là 18.186 nhân dân tệ, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước theo danh nghĩa.

Nhìn chung, các chính sách vĩ mô chủ động và hiệu quả hơn được thực hiện trong nửa đầu năm đã mang lại kết quả, với nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định và cải thiện, thể hiện sự dẻo dai và sức sống mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng có nhiều yếu tố bên ngoài không ổn định và không chắc chắn, và nhu cầu hiệu quả trong nước vẫn còn thiếu hụt. Nền tảng cho sự phục hồi và cải thiện kinh tế vẫn cần được tăng cường và củng cố. Trong giai đoạn tiếp theo, chúng ta nên tuân thủ sự hướng dẫn của Tư tưởng Tập Cận Bình về Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, duy trì nguyên tắc chung là theo đuổi tiến bộ trong khi đảm bảo ổn định, thực hiện đầy đủ và chính xác quan niệm phát triển mới, đẩy nhanh việc xây dựng mô hình phát triển mới, phối hợp công việc kinh tế trong nước với các cuộc đấu tranh kinh tế và thương mại quốc tế, kiên định tập trung vào công việc của chính mình, tiếp tục tăng cường sự lưu thông lớn trong nước, đáp ứng với những bất ổn định bên ngoài bằng sự chắc chắn của phát triển chất lượng cao, và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, ổn định và lành mạnh.

  • Tin tức chọn lọc
Trò chuyện trực tiếp qua WhatsApp
Giúp chúng tôi biết ý kiến của bạn trong 1 phút.