Cục Thống kê Quốc gia (NBS) đã công bố dữ liệu kinh tế cho nửa đầu năm nay. Theo tính toán sơ bộ, GDP nửa đầu năm là 66.053,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước theo giá cố định. Theo ngành, giá trị gia tăng của ngành sơ cấp là 3.117,2 tỷ nhân dân tệ, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước; giá trị gia tăng của ngành thứ cấp là 23.905 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,3%; và giá trị gia tăng của ngành thứ ba là 39.031,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,5%. Theo quý, GDP quý I tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước và GDP quý II tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, GDP quý II tăng 1,1%.
Nền kinh tế quốc gia trong nửa đầu năm đã vượt qua khó khăn và duy trì tăng trưởng ổn định và tích cực.
Trong nửa đầu năm, dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng với đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân, các khu vực và bộ ngành đã nghiêm túc thực hiện các quyết định và triển khai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quốc vụ viện, tuân thủ nguyên tắc chung là vừa đảm bảo ổn định vừa đạt được tiến bộ, thực hiện đầy đủ và chính xác quan niệm phát triển mới, đẩy nhanh việc xây dựng mô hình phát triển mới, phối hợp công việc kinh tế trong nước với các cuộc đấu tranh kinh tế và thương mại quốc tế, thực hiện có hiệu quả các chính sách vĩ mô chủ động và hiệu quả hơn. Nền kinh tế quốc gia đã chịu được áp lực, vượt qua khó khăn và duy trì sự ổn định và tăng trưởng tích cực tổng thể. Sản xuất và nhu cầu đã tăng trưởng ổn định, tình hình việc làm vẫn ổn định chung, thu nhập của người dân tiếp tục tăng lên, các động lực tăng trưởng mới đã mở rộng và được củng cố, đã có những bước tiến mới trong phát triển chất lượng cao và đã duy trì được sự ổn định xã hội.
Theo tính toán sơ bộ, GDP nửa đầu năm là 66.053,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước theo giá cố định. Theo ngành, giá trị gia tăng của ngành sơ cấp là 3.117,2 tỷ nhân dân tệ, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước; giá trị gia tăng của ngành thứ cấp là 23.905 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,3%; và giá trị gia tăng của ngành thứ ba là 39.031,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,5%. Theo quý, GDP quý I tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước và GDP quý II tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, GDP quý 2 tăng 1,1%.
I. Sản xuất ổn định và mùa hè thu hoạch bội thu, tăng trưởng ổn định trong chăn nuôi
Trong nửa đầu năm, giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp (trồng trọt) tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lương thực mùa hè trên toàn quốc là 149,74 triệu tấn, giảm 150.000 tấn, tương đương giảm 0,1% so với năm trước. Trong nửa đầu năm, sản lượng thịt lợn, thịt bò, thịt cừu và thịt gia cầm là 48,43 triệu tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, sản lượng thịt lợn, thịt bò và thịt gia cầm tăng lần lượt là 1,3%, 4,5% và 7,4%, trong khi sản lượng thịt cừu giảm 4,6%. Sản lượng sữa tăng 0,5% và sản lượng trứng tăng 1,5%. Cuối quý 2, tổng đàn lợn sống là 424,47 triệu con, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong nửa đầu năm, số lượng lợn sống được giết mổ là 366,19 triệu con, tăng 0,6%.
II. Tăng trưởng nhanh trong sản xuất công nghiệp, với động lực tốt trong sản xuất thiết bị và sản xuất công nghệ cao
Trong nửa đầu năm, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định trên toàn quốc tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Theo ngành, giá trị gia tăng của ngành khai thác mỏ tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước, ngành sản xuất tăng 7,0% và ngành sản xuất và cung cấp điện, nhiệt, khí và nước tăng 1,9%. Giá trị gia tăng của sản xuất thiết bị tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước và sản xuất công nghệ cao tăng 9,5%, với tốc độ tăng trưởng lần lượt nhanh hơn 3,8 và 3,1 điểm phần trăm so với tất cả các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định. Theo loại hình kinh tế, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp nhà nước tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; các doanh nghiệp cổ phần tăng 6,9%; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan tăng 4,3%; và các doanh nghiệp tư nhân tăng 6,7%. Theo sản phẩm, sản lượng thiết bị in 3D, xe năng lượng mới (NEV) và robot công nghiệp tăng lần lượt là 43,1%, 36,2% và 35,6% so với cùng kỳ năm trước. Vào tháng 6, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước và 0,50% so với tháng trước. Tháng 6, chỉ số PMI sản xuất là 49,7%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước; chỉ số dự báo hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp là 52,0%. Từ tháng 1 đến tháng 5, các doanh nghiệp công nghiệp trên quy mô chỉ định trên toàn quốc đạt tổng lợi nhuận 2.720,4 tỷ nhân dân tệ, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước.
III. Tăng trưởng nhanh hơn trong lĩnh vực dịch vụ và phát triển lành mạnh của các ngành dịch vụ hiện đại
Trong nửa đầu năm, giá trị gia tăng của ngành dịch vụ tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, nhanh hơn 0,2 điểm phần trăm so với quý I. Trong đó, giá trị gia tăng của ngành công nghiệp dịch vụ truyền thông tin, phần mềm và công nghệ thông tin, ngành công nghiệp dịch vụ cho thuê và kinh doanh, ngành công nghiệp vận tải, lưu trữ và dịch vụ bưu chính, và ngành công nghiệp bán buôn và bán lẻ tăng lần lượt là 11,1%, 9,6%, 6,4% và 5,9%. Tháng 6, chỉ số sản xuất ngành dịch vụ quốc gia tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp dịch vụ truyền thông tin, phần mềm và công nghệ thông tin, ngành công nghiệp dịch vụ cho thuê và kinh doanh, ngành công nghiệp tài chính và ngành công nghiệp bán buôn và bán lẻ tăng lần lượt là 11,6%, 8,4%, 7,3% và 6,9%. Từ tháng 1 đến tháng 5, doanh thu hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ trên quy mô chỉ định tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 6, chỉ số hoạt động kinh doanh của ngành dịch vụ là 50,1%, và chỉ số dự báo hoạt động kinh doanh của ngành dịch vụ là 56,0%. Trong đó, chỉ số hoạt động kinh doanh của các ngành như dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát thanh, truyền hình và truyền dẫn vệ tinh, dịch vụ phần mềm và công nghệ thông tin internet, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ thị trường vốn và bảo hiểm đều trên 55,0%, cho thấy mức độ thịnh vượng tương đối cao.
IV. Phục hồi tăng trưởng doanh số bán hàng thị trường và doanh số bán hàng tốt của các mặt hàng nâng cấp tiêu dùng
Trong nửa đầu năm, tổng doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng đạt 24.545,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước, nhanh hơn 0,4 điểm phần trăm so với quý I. Theo vị trí của các đơn vị kinh doanh, doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng ở khu vực thành thị là 21.305 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước; ở khu vực nông thôn là 3.240,9 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,9%. Theo loại hình tiêu dùng, doanh số bán lẻ hàng hóa đạt 21.797,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống là 2.748 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Doanh số bán hàng của các mặt hàng thiết yếu cơ bản và một số mặt hàng nâng cấp có hiệu suất tốt, với doanh số bán hàng của các mặt hàng ngũ cốc, dầu mỡ và thực phẩm, thể thao và giải trí, và vàng, bạc và trang sức của các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định lần lượt tăng 12,3%, 22,2% và 11,3% so với cùng kỳ năm trước. Chính sách đổi mới sản phẩm tiêu dùng tiếp tục phát huy hiệu quả, với doanh thu bán lẻ của các doanh nghiệp trên quy mô chỉ định về thiết bị gia dụng và thiết bị nghe nhìn, văn hóa và dụng cụ văn phòng, thiết bị thông tin liên lạc và đồ nội thất lần lượt tăng 30,7%, 25,4%, 24,1% và 22,9% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bán lẻ trực tuyến toàn quốc đạt 7.429,5 tỷ nhân dân tệ, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ trực tuyến của hàng hóa vật chất là 6.119,1 tỷ nhân dân tệ, tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 24,9% tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa tiêu dùng. Tháng 6, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa tiêu dùng tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,16% so với tháng trước. Trong nửa đầu năm, doanh thu bán lẻ dịch vụ tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, nhanh hơn 0,3 điểm phần trăm so với quý 1.
V. Đầu tư tài sản cố định tiếp tục mở rộng, với đầu tư sản xuất tăng nhanh
Trong nửa đầu năm, đầu tư tài sản cố định toàn quốc (không bao gồm hộ gia đình nông thôn) là 24.865,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; không bao gồm đầu tư phát triển bất động sản, đầu tư tài sản cố định toàn quốc tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước. Theo ngành, đầu tư cơ sở hạ tầng tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, đầu tư sản xuất tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước và đầu tư phát triển bất động sản giảm 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích bán nhà ở thương mại mới xây dựng trên toàn quốc là 458,51 triệu m², giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước; giá trị bán nhà ở thương mại mới xây dựng là 4.424,1 tỷ nhân dân tệ, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Theo ngành, đầu tư vào ngành sơ cấp tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, đầu tư vào ngành thứ cấp tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước và đầu tư vào ngành thứ cấp giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư tư nhân giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước; không bao gồm đầu tư phát triển bất động sản, đầu tư tư nhân khác tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghệ cao, đầu tư vào ngành dịch vụ thông tin, sản xuất hàng không, tàu vũ trụ và thiết bị, sản xuất máy tính và thiết bị văn phòng lần lượt tăng 37,4%, 26,3% và 21,5% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 6, đầu tư tài sản cố định (không bao gồm hộ gia đình nông thôn) giảm 0,12% so với tháng trước.
VI. Xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục tăng, với cơ cấu thương mại tiếp tục được tối ưu hóa
Trong nửa đầu năm, tổng xuất nhập khẩu hàng hóa là 21.787,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 13 nghìn tỷ nhân dân tệ, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 8.787,5 tỷ nhân dân tệ, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân tăng 7,3%, chiếm 57,3% tổng giá trị xuất nhập khẩu, cao hơn 2,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Xuất nhập khẩu với các quốc gia tham gia cùng xây dựng "Vành đai và Con đường" tăng 4,7%. Xuất khẩu các sản phẩm cơ điện tăng 9,5%, chiếm 60,0% tổng giá trị xuất khẩu. Trong tháng 6, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 3.852,7 tỷ nhân dân tệ, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 2.339,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 1.513,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước.
VII. Giá tiêu dùng vẫn ổn định nói chung, chỉ số CPI cơ bản hồi phục nhẹ
Trong nửa đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng quốc gia (CPI) giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Theo loại mặt hàng, giá thực phẩm, thuốc lá và rượu giảm 0,3%, giá quần áo tăng 1,3%, giá nhà ở tăng 0,1%, giá hàng tiêu dùng và dịch vụ hàng ngày không thay đổi, giá giao thông và truyền thông giảm 2,9%, giá giáo dục, văn hóa và giải trí tăng 0,8%, giá y tế tăng 0,3% và giá các mặt hàng và dịch vụ khác tăng 6,7%. Trong giá thực phẩm, thuốc lá và rượu, giá rau tươi giảm 5,3%, giá ngũ cốc giảm 1,3%, giá trái cây tươi tăng 2,7% và giá thịt lợn tăng 3,8%. Trong tháng 6, chỉ số CPI quốc gia tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,1% so với tháng trước. Trong nửa đầu năm, chỉ số CPI cơ bản, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý I. Trong đó, chỉ số CPI cơ bản tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 6, tăng 0,1 điểm phần trăm so với tháng trước.
Trong nửa đầu năm, giá xuất xưởng của các nhà sản xuất công nghiệp quốc gia giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,4% so với tháng trước trong tháng 6. Trong nửa đầu năm, giá mua của các nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số này giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,7% so với tháng trước vào tháng 6.
VIII. Tình hình việc làm vẫn ổn định nói chung, với tỷ lệ thất nghiệp thành thị được khảo sát giảm nhẹ
Trong nửa đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp thành thị được khảo sát trung bình là 5,2%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý I. Vào tháng 6, tỷ lệ thất nghiệp thành thị được khảo sát là 5,0%. Tỷ lệ thất nghiệp được khảo sát đối với lao động đăng ký địa phương là 5,1%, và đối với lao động di cư là 4,8%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp được khảo sát đối với lao động nông nghiệp di cư cũng là 4,8%. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị được khảo sát đối với 31 thành phố lớn là 5,0%. Số giờ làm việc trung bình hàng tuần của nhân viên trong các doanh nghiệp trên toàn quốc là 48,5 giờ. Vào cuối quý II, tổng số lao động nông thôn di cư là 191,39 triệu người, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
IX. Thu nhập của cư dân tăng trưởng ổn định, với thu nhập của cư dân nông thôn tăng nhanh hơn so với cư dân thành thị
Trong nửa đầu năm, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân trên toàn quốc là 21.840 nhân dân tệ, tăng 5,3% theo danh nghĩa so với cùng kỳ năm trước và tăng 5,4% theo thực tế sau khi điều chỉnh theo yếu tố giá cả. Theo nơi cư trú, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân thành thị là 28.844 nhân dân tệ, tăng 4,7% theo danh nghĩa so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,7% theo thực tế; thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân nông thôn là 11.936 nhân dân tệ, tăng 5,9% theo danh nghĩa so với cùng kỳ năm trước và tăng 6,2% theo thực tế. Về nguồn thu nhập, tốc độ tăng trưởng danh nghĩa của thu nhập tiền lương bình quân đầu người, thu nhập hoạt động kinh doanh ròng, thu nhập tài sản ròng và thu nhập chuyển nhượng ròng của cư dân trên toàn quốc lần lượt là 5,7%, 5,3%, 2,5% và 5,6%. Thu nhập khả dụng bình quân đầu người trung vị của cư dân trên toàn quốc là 18.186 nhân dân tệ, với tốc độ tăng trưởng danh nghĩa so với cùng kỳ năm trước là 4,8%.
Nhìn chung, các chính sách vĩ mô chủ động và hiệu quả hơn được thực hiện trong nửa đầu năm đã mang lại kết quả đáng kể, với nền kinh tế tiếp tục duy trì xu hướng phát triển ổn định và tích cực, thể hiện sự đàn hồi và sức sống mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng có nhiều yếu tố bên ngoài không ổn định và không chắc chắn, và nhu cầu hiệu quả trong nước vẫn còn thiếu hụt. Nền tảng cho sự phục hồi và cải thiện kinh tế vẫn cần được tăng cường và củng cố. Trong giai đoạn tiếp theo, chúng ta nên tuân thủ sự hướng dẫn của Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, duy trì nguyên tắc chung là theo đuổi tiến bộ trong khi đảm bảo ổn định, thực hiện đầy đủ và chính xác quan niệm phát triển mới, đẩy nhanh việc xây dựng mô hình phát triển mới, phối hợp công tác kinh tế trong nước với các cuộc đấu tranh kinh tế và thương mại quốc tế, kiên định tập trung vào công việc của chính mình, tiếp tục tăng cường chu trình kinh tế trong nước, đối phó với những bất ổn định bên ngoài bằng sự chắc chắn của phát triển chất lượng cao, và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, ổn định và lành mạnh.



