Tin tức SMM ngày 29 tháng 5:
Về tồn kho phôi nhôm, theo thống kê của SMM, tính đến ngày 29 tháng 5, tồn kho phôi nhôm tại các khu vực tiêu thụ chính trong nước đạt 1,283 triệu tấn, giảm 19.000 tấn so với thứ Hai tuần này và giảm 25.000 tấn so với mức tồn kho vào thứ Năm tuần trước. Mặc dù có dấu hiệu chậm lại trong việc giảm tồn kho phôi nhôm, nhưng tổng tồn kho vẫn dao động quanh mức 1,3 triệu tấn, vẫn ở mức thấp so với cùng kỳ trong ba năm qua, cho thấy mức tồn kho tiếp tục ở mức thấp. Từ góc độ dữ liệu xuất kho, tổng lượng phôi nhôm xuất kho trong nước trong khoảng thời gian từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 5 đạt 446.000 tấn, giảm 49.000 tấn so với tuần trước và giảm 73.000 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Chịu ảnh hưởng liên tục của việc vận chuyển bằng xe tải, lượng hàng xuất kho không có nhiều cải thiện, cho thấy hoạt động giao dịch trên thị trường phôi nhôm suy yếu đáng kể và bầu không khí mùa ế ẩm ngày càng gia tăng. Từ góc độ khu vực, có xu hướng tăng dần về lượng phôi nhôm đến khu vực Vô Tích, khi tiêu thụ hạ nguồn suy yếu, khiến các nhà sản xuất tăng lượng hàng xuất kho đến kho. Đồng thời, chênh lệch giá Quảng Đông - Thượng Hải hiện nay đã mở rộng lên 150 nhân dân tệ/tấn, và chênh lệch giá "mạnh ở phía Đông, yếu ở phía Nam" có thể thúc đẩy dòng chảy phôi nhôm giữa các khu vực. Cần tiếp tục theo dõi tốc độ thay đổi tiêu thụ trong nước và biến động chênh lệch giá Quảng Đông - Thượng Hải.
Trong tuần qua, giao dịch trên thị trường nhôm SHFE đã quay trở lại logic cơ bản, khi tiêu thụ thị trường chuyển từ mùa cao điểm sang mùa ế ẩm. Tuy nhiên, do lượng hàng đến kho xã hội hạn chế và việc giảm tồn kho liên tục, giá nhôm duy trì dao động trong phạm vi nhất định trong tuần, với mức giảm giá giao ngay hạn chế. Mặt khác, phôi nhôm đã chịu áp lực đáng kể về phí gia công do mua sắm hạ nguồn suy yếu, với phí gia công phôi nhôm tại ba khu vực có sự thay đổi khác nhau. Tính đến ngày 29 tháng 5 năm 2025, thị trường phôi nhôm khu vực Phật Sơn báo cáo phí gia công là 290/340 nhân dân tệ/tấn, tăng 10 nhân dân tệ/tấn so với tuần trước; khu vực Vô Tích báo cáo phí gia công là 250/330 nhân dân tệ/tấn, giảm 50/20 nhân dân tệ/tấn; và khu vực Nam Xương báo cáo phí gia công là 270/320 nhân dân tệ/tấn, tăng 20 nhân dân tệ/tấn. (Đơn vị: nhân dân tệ/tấn)
》Đăng ký để xem bảng giá lịch sử kim loại tại chỗ của SMM
》Nhấp để xem cơ sở dữ liệu chuỗi ngành nhôm của SMM



