Vào tháng 4, những thay đổi thường xuyên trong chính sách thuế quan đã khiến giá đồng dao động mạnh, giống như một chuyến đi trên tàu lượn siêu tốc. Vậy, tình hình đơn hàng của ngành dây mạ men như thế nào? Đơn hàng của các công ty có bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong chính sách thuế quan không? Đội ngũ chuyên gia về đồng của SMM đã tiến hành một cuộc khảo sát với một số công ty sản xuất dây mạ men, và các chi tiết cụ thể như sau:
Công ty A: Tháng 4 vẫn là mùa cao điểm truyền thống của ngành dây mạ men. Hiện tại, tổng đơn hàng của tháng 4 dự kiến sẽ vẫn duy trì ở mức cao. Khi giá đồng giảm vào đầu tháng, các đơn hàng hạ nguồn tăng vọt. Chính sách thuế quan không có nhiều tác động đến công ty, chủ yếu là do các nhóm khách hàng khác nhau, tập trung vào thị trường trong nước.
Công ty B: Đơn hàng từ các công ty sản xuất thiết bị gia dụng khá tốt, nhưng động cơ công nghiệp không đạt như kỳ vọng. Sản xuất và bán hàng trong tháng 4 dự kiến sẽ duy trì ở mức bình thường.
Công ty C: Công ty xuất khẩu rất ít dây mạ men trực tiếp sang Mỹ, với Đông Nam Á là thị trường chính. Ngoài ra, các sản phẩm bằng đồng vẫn được miễn thuế, nên hiện tại không có tác động nào. Tuy nhiên, phạm vi ứng dụng của dây mạ men rất rộng, và sản xuất và bán hàng của các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng như ô tô, dụng cụ điện và thiết bị gia dụng sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu về dây mạ men.
Công ty D: Đơn hàng hạ nguồn khá tốt, và công ty tự tin về tháng 4. Tuy nhiên, những chính sách thuế quan gần đây đang gây lo ngại. Khách hàng hạ nguồn là các công ty sản xuất thiết bị gia dụng vẫn chiếm một phần đáng kể, và mặc dù chưa cảm nhận được sự giảm sút đơn hàng, nhưng chính sách thuế quan của Mỹ sẽ ngăn cản các thiết bị gia dụng trong nước được xuất khẩu sang Mỹ, làm dấy lên lo ngại về tiêu thụ trong tương lai.
Công ty E: Sản xuất và bán hàng dây mạ men đã đạt mức cao kỷ lục vào tháng 3, chủ yếu là do mô hình kinh doanh của công ty và điều kiện thị trường thuận lợi. Nhu cầu trên các lĩnh vực khác nhau dường như đang tăng lên. Sau Lễ hội Thanh Minh, giá đồng giảm mạnh, dẫn đến sự tăng vọt của các đơn hàng hạ nguồn. Số lượng đơn hàng trong ba ngày làm việc đã nhiều hơn gấp ba lần so với bình thường. Tỷ lệ hoạt động cao dự kiến sẽ tiếp tục trong tháng 4. Chính sách thuế quan cho đến nay không có nhiều tác động.
Công ty F: Sự dao động của giá đồng đã có tác động đáng kể đến đơn hàng. Đơn hàng tháng 4 không ổn định lắm, với một số ngày có đơn hàng tương đương với ba hoặc thậm chí bốn ngày. Tuy nhiên, đơn hàng đã ổn định sau khi giá đồng tăng lên. Nhìn chung, đơn hàng đang có vẫn đủ, và nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng như thiết bị gia dụng và động cơ vi mô ô tô vẫn mạnh mẽ. Chưa cảm nhận được sự giảm sút đơn hàng do thuế quan.
Công ty G: Đơn hàng đã tương đối ổn định, với nhiều khách hàng hạ nguồn lớn. Một phần đáng kể khách hàng thanh toán theo giá trung bình. Khi giá đồng tăng vào giữa tháng 3, các khách hàng thanh toán theo giá trung bình của tháng trước đã nhân cơ hội tăng đơn hàng, làm cạn kiệt nhu cầu của tháng 4 trước thời hạn. Tuy nhiên, giá đồng giảm mạnh vào cuối tháng 3, khiến giá trung bình cao của tháng 3 không thể chấp nhận được đối với các khách hàng thanh toán theo giá trung bình hàng tháng. Đơn hàng gần đây đã giảm đáng kể so với tháng 3, nhưng điều này là do phương thức thanh toán của công ty. Đơn hàng dự kiến sẽ trở lại bình thường vào tháng 5. Về phía nhu cầu, nhu cầu gần đây từ lĩnh vực thiết bị gia dụng vẫn ổn định, nhưng đơn hàng xe hai bánh đã giảm. Mặc dù chưa cảm nhận được tác động của thuế quan, nhưng có những lo ngại về nhu cầu trong tương lai đối với các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng.
Công ty H: Đơn hàng dây phẳng được sử dụng trong máy biến áp luôn ổn định. Sau khi giá đồng giảm mạnh vào tháng 4, các đơn hàng hạ nguồn tăng vọt, với ba ngày đơn hàng vượt quá bốn lần so với bình thường. Lịch trình sản xuất đã được đặt cho đến tháng 6. Xuất khẩu máy biến áp cũng đáng kể. Hiện tại, các đơn hàng không phản ánh trực tiếp tác động của thuế quan, nhưng tình hình trong tương lai không lạc quan.
Công ty I: Chưa cảm nhận được tác động trực tiếp của thuế quan đối với ngành dây mạ men. Tuy nhiên, hạ nguồn liên quan đến ngành công nghiệp dụng cụ điện, và Mỹ là điểm xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc đối với dụng cụ điện. Dựa trên tình hình hiện tại, những tác động đáng kể là không thể tránh khỏi trong tương lai, làm dấy lên lo ngại về khả năng giảm sút đơn hàng.
Công ty J: Ngành công nghiệp thiết bị gia dụng hạ nguồn chiếm một phần lớn. Đơn hàng thiết bị gia dụng hạ nguồn đã hoạt động tốt trong quý 1, và tỷ lệ hoạt động cao dự kiến sẽ tiếp tục trong tháng 4. Những lo ngại về thuế quan vẫn còn. Cả các nhà sản xuất thiết bị điện đen và trắng đều báo cáo rằng các đơn hàng ban đầu được lên kế hoạch cho Mỹ đã bị hủy hoặc trì hoãn do thuế quan cao. Mặc dù khối lượng tương đối nhỏ, nhưng điều này chắc chắn sẽ gây bất lợi cho tiêu thụ trong dài hạn, cuối cùng ảnh hưởng đến lĩnh vực dây mạ men.

Nhìn chung, ngành dây mạ men vẫn đang ở trong mùa cao điểm khi bước vào tháng 4. Theo dữ liệu của SMM, tỷ lệ hoạt động của ngành dây mạ men dự kiến sẽ đạt 73,45% trong tháng 4, tăng 3,17 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Từ phía doanh nghiệp, được biết khi giá đồng giảm vào đầu tháng 4, các đơn hàng tăng vọt. Mặc dù sự tăng giá đồng tiếp theo đã dẫn đến sự giảm sút đơn hàng, nhưng tổng lượng đơn hàng vẫn duy trì ở mức tương đối cao, giữ cho lịch trình sản xuất của ngành dây mạ men ở mức cao trong tháng 4.
Về thuế quan, theo dữ liệu hải quan, trong năm 2024, tỷ lệ các loại máy điều hòa, tủ đông, tủ lạnh và máy giặt được xuất khẩu từ Trung Quốc sang Mỹ trong các loại sản phẩm tương ứng là 7,8%, 17,7%, 14,7% và 4,8%. Tỷ lệ một số dụng cụ điện cầm tay được xuất khẩu sang Mỹ đạt 17,19%. Là các lĩnh vực hạ nguồn quan trọng của ngành dây mạ men, thiết bị gia dụng và dụng cụ điện chiếm khoảng 38% trong cơ cấu nhu cầu của thị trường dây mạ men, và sản xuất và bán hàng của chúng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu thị trường đối với dây mạ men. Dựa trên phản hồi từ các doanh nghiệp dây mạ men hiện tại, hầu hết các công ty báo cáo rằng mặc dù đơn hàng từ một số nhà máy động cơ hạ nguồn đã giảm nhẹ, nhưng tổng khối lượng đơn hàng vẫn ở mức vừa phải vào thời điểm này, và chưa cảm nhận được tác động đáng kể nào. Tuy nhiên, có những lo ngại rộng rãi trong ngành về xu hướng trong tương lai của thị trường tiêu dùng.



