Tính đến thứ Sáu này, tại các cảng phía bắc: Quặng cục Úc là 42,5-43 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước); Quặng hạt Úc là 39-39,5 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước); Quặng bán cacbonat Nam Phi là 33-33,5 nhân dân tệ/mtu (tăng 1,53% so với tuần trước); Quặng Gabon là 37,5-38 nhân dân tệ/mtu (tăng 1,34% so với tuần trước); Quặng sắt cao Nam Phi là 29-29,5 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước). Tại các cảng phía nam: Quặng cục Úc là 43,5-44 nhân dân tệ/mtu (giảm 1,13% so với tuần trước); Quặng hạt Úc là 40,5-41 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước); Quặng bán cacbonat Nam Phi là 33-33,5 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước); Quặng Gabon là 41-41,5 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước); Quặng sắt cao Nam Phi là 29,5-30 nhân dân tệ/mtu (không đổi so với tuần trước).
Tuần này, tồn kho quặng mangan tại cảng phía bắc và phía nam giảm chậm, với mức tồn kho tổng thể vẫn cao. Tồn kho tại cảng phía nam thấp hơn so với cảng phía bắc, dẫn đến giá giao ngay quặng mangan ở phía nam cao hơn tương đối. Do báo giá nước ngoài cho quặng bán cacbonat Nam Phi tăng nhẹ, giá giao ngay cho quặng bán cacbonat Nam Phi dao động tăng, thu hẹp khoảng cách giá giữa các khu vực phía bắc và phía nam. Tuy nhiên, do tồn kho tương đối thấp ở phía nam, quặng bán cacbonat Nam Phi giá cao có giao dịch tốt hơn ở phía nam so với phía bắc. Giá các loại quặng mangan khác vẫn tương đối ổn định, thị trường hoạt động ổn định. Các nhà khai thác kỳ vọng mạnh mẽ vào việc tăng giá, với sự sẵn sàng bán ở mức giá thấp yếu. Dự kiến tâm lý này sẽ tiếp tục vào tuần tới, và cần chú ý đến tình hình mua thực tế của quặng mangan bởi các nhà máy hợp kim trong tương lai.



