3.19Tóm tắt cuộc họp buổi sáng về Nickel
Nickel tinh luyện:
Tin tức SMM ngày 18 tháng 3:Phụ phí/Giảm giá giao ngay: Phạm vi báo giá phụ phí giao ngay chính cho Nickel Jinchuan là 1.500-1.700 nhân dân tệ/tấn, với mức phụ phí trung bình là 1.600 nhân dân tệ/tấn, tăng 200 nhân dân tệ/tấn so với ngày giao dịch trước đó. Phạm vi báo giá phụ phí/giảm giá cho Nickel Nga là -200 đến 0 nhân dân tệ/tấn, với mức giảm giá trung bình là -100 nhân dân tệ/tấn, không thay đổi so với ngày giao dịch trước đó.
Thị trường kỳ hạn: Hôm nay, giá nickel cho thấy xu hướng dao động sau khi mở cửa. Tính đến 11:30, giá đóng cửa là 130,743 nhân dân tệ/tấn, giảm 2,31% so với giá thanh toán ngày giao dịch trước đó, với mức thấp nhất là 129,810 nhân dân tệ/tấn.
Phụ phí/Giảm giá giao ngay: Phụ phí của Nickel Jinchuan tăng 200 nhân dân tệ so với ngày giao dịch trước đó. Tối qua, thị trường kỳ hạn giảm nhẹ, khiến các nhà giao dịch tăng giá vừa phải để hòa vốn.
Từ góc độ kỹ thuật, hợp đồng kỳ hạn nickel SHFE giảm sau khi mở cửa, có thể cho thấy tác động tâm lý từ các chính sách trước đó của Indonesia đã giảm bớt. Trong tương lai, cần chú ý sát sao đến sự phục hồi của nhu cầu hạ nguồn.
Chênh lệch giá với Nickel Sulphate: Hôm nay, giá nickel tinh luyện SMM 1# nằm trong khoảng 129,700-132,050 nhân dân tệ/tấn, với giá trung bình là 130,875 nhân dân tệ/tấn, giảm 2,675 nhân dân tệ/tấn so với giá giao ngay ngày hôm trước. Chênh lệch giá khoảng 102,775, với nickel sulphate vẫn ở mức giảm giá so với nickel tinh luyện.
Nickel Sulphate:
Ngày 18 tháng 3, giá chỉ số nickel sulphate cấp pin SMM là 27,867 nhân dân tệ/tấn, với phạm vi báo giá từ 27,800-28,400 nhân dân tệ/tấn, và giá trung bình tăng so với tuần trước.Phía chi phí: Tuần này, một số nhà giao dịch đã tăng hệ số định giá cho cobalt trong MHP khoảng 5 điểm. Hệ số MHP vẫn ở mức cao, và dường như không có động lực giảm hệ số nguyên liệu thô trong suốt quý 2. Hôm qua, giá nickel LME giảm nhẹ, làm suy yếu hỗ trợ chi phí cho các nhà luyện nickel muối. Tuy nhiên, tâm lý giữ giá vẫn tồn tại ở các nhà luyện, và điều này chưa được truyền đến thị trường nickel muối. Phía nhu cầu: Bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường cobalt, các nhà máy tiền chất đã làm chậm tốc độ mua sắm, mặc dù một số vẫn có nhu cầu dự trữ kịp thời. Phía cung cấp: Giá nguyên liệu thô dao động ở mức cao, và tâm lý giữ giá lan rộng trong các nhà luyện nickel muối. Các nhà luyện nickel muối duy trì mức tồn kho thấp, và lưu thông thị trường nickel muối bị thắt chặt. Phân tích tổng hợp: Xét đến nhu cầu liên tục, mức tồn kho thấp và tâm lý giữ giá của các nhà luyện nickel muối, giá nickel muối dự kiến sẽ có tiềm năng tăng thêm trong ngắn hạn.
NPI:
Tin tức ngày 18 tháng 3: Giá trung bình NPI cấp cao 8-12% SMM là 1,014.5 nhân dân tệ/mtu (giá xuất xưởng, bao gồm thuế), tăng 3 nhân dân tệ/mtu so với ngày làm việc trước đó. Phía cung cấp: Trong nước, khi mùa mưa ở Philippines sắp kết thúc, sẽ mất thời gian để lượng vận chuyển quặng nickel tăng lên. Giá quặng nickel vẫn ổn định, và động lực sản xuất của các nhà luyện yếu, với sản xuất ở mức thấp. Tại Indonesia, mưa lớn gần đây và nguồn cung quặng nickel thắt chặt dẫn đến mức tồn kho quặng nickel thấp tại các nhà luyện. Mặc dù có sự gia tăng công suất mới, sản xuất chỉ tăng nhẹ. Phía nhu cầu: Đơn hàng kỳ hạn thép không gỉ tương đối mạnh, và với giá phế liệu thép không gỉ tăng cùng với giá sản phẩm hoàn thiện, lợi thế kinh tế của phế liệu thép không gỉ suy yếu. Các nhà máy thép không gỉ cho thấy tâm lý cải thiện đối với việc mua NPI cấp cao, và các yêu cầu thị trường sôi động. Trong ngắn hạn, giá NPI cấp cao dự kiến sẽ duy trì ổn định với xu hướng mạnh, được hỗ trợ bởi nguồn cung và nhu cầu thắt chặt.
Thép không gỉ:
Theo khảo sát của SMM, vào ngày 18 tháng 3, giá thị trường thép không gỉ cho thấy hiệu suất trái chiều tùy thuộc vào điều kiện thị trường và tồn kho. Các sản phẩm có nguồn cung thắt chặt tiếp tục tăng do xu hướng tăng trước đó chưa được thực hiện đầy đủ, trong khi các sản phẩm có nguồn cung dồi dào đối mặt với áp lực giảm giá do giải phóng tồn kho. Hợp đồng kỳ hạn SS2505 được giao dịch nhiều nhất dao động giảm, và khi việc chuyển kho giao hàng tiến triển, giá giảm. Lúc 10:30 sáng, SS2505 được báo giá ở mức 13,545 nhân dân tệ/tấn, giảm 95 nhân dân tệ/tấn. Tại Vô Tích, phụ phí/giảm giá giao ngay 304/2B dao động từ -25 đến 215 nhân dân tệ/tấn.
Giá trung bình của cuộn 201/2B tại Vô Tích là 7,820 nhân dân tệ/tấn, giảm 15 nhân dân tệ/tấn, trong khi tại Phật Sơn là 7,830 nhân dân tệ/tấn, giảm 5 nhân dân tệ/tấn. Giá trung bình của cuộn 304/2B với cạnh nhà máy tại Vô Tích là 13,470 nhân dân tệ/tấn, tăng 20 nhân dân tệ/tấn, trong khi tại Phật Sơn là 13,350 nhân dân tệ/tấn, không thay đổi. Giá trung bình của cuộn 316L/2B tại Vô Tích và Phật Sơn lần lượt là 24,125 nhân dân tệ/tấn và 24,175 nhân dân tệ/tấn, cả hai đều không thay đổi. Giá trung bình của cuộn 430/2B tại Vô Tích là 7,440 nhân dân tệ/tấn, tăng 30 nhân dân tệ/tấn, trong khi tại Phật Sơn là 7,330 nhân dân tệ/tấn, giảm 10 nhân dân tệ/tấn. Nhìn chung, giá thép không gỉ cho thấy hiệu suất trái chiều giữa các dòng sản phẩm và thông số kỹ thuật.
Thị trường thép không gỉ vẫn đối mặt với áp lực từ phía cung. Công suất thép không gỉ trước đó ở mức cao, và dự kiến sẽ có thêm công suất trong tương lai. Phía nhu cầu: Mặc dù mùa cao điểm truyền thống đã đến, nhu cầu hạ nguồn chủ yếu vẫn là mua sắm kịp thời, với việc giải phóng nhu cầu tổng thể không đạt kỳ vọng. Giao dịch thị trường cho thấy hiệu suất trung bình.
Xu hướng tăng trong thị trường giao ngay thép không gỉ đã suy yếu, và thị trường có thể chuyển sang dao động ngang trong tương lai.
Quặng Nickel:
Tuần trước, trong thị trường quặng nickel laterite cấp thấp của Philippines, giá cả nhìn chung ổn định, với nhu cầu yếu từ các nhà máy trong nước. Trong tình trạng thua lỗ, khả năng chấp nhận tăng giá bị hạn chế. Đối với quặng nickel cấp thấp, có ít giao dịch trong tuần này, và giá cả nhìn chung ổn định. Đối với quặng nickel cấp trung và cao, bị ảnh hưởng bởi giá quặng Indonesia tăng, các mỏ Philippines duy trì tâm lý giữ giá, và giá chào bán tăng. Phía cung cấp: Mùa mưa ở các khu vực khai thác chính phía nam sắp kết thúc, nhưng tác động của nó vẫn còn. Nhìn về phía trước, lượng vận chuyển từ Philippines dự kiến sẽ tăng. Phía nhu cầu: Sự tăng liên tục của giá NPI đã thúc đẩy giá quặng nickel, và tồn kho quặng nickel cấp trung và cao của các nhà luyện vẫn ở mức thấp, với nhu cầu bổ sung mạnh. Giá cước vận chuyển: Một số giá cước vận chuyển được báo cáo ở mức 11 USD/tấn. Khi mùa mưa ở các khu vực khai thác chính phía nam kết thúc, sự thay đổi vị trí vận chuyển có thể dẫn đến giá cước vận chuyển cao hơn. Tóm lại, với nguồn cung và nhu cầu mạnh mẽ, SMM dự kiến giá Philippines sẽ dao động tăng.
Giá giao dịch thị trường hiện tại: Đối với quặng luyện kim nhiệt, giá phụ phí chính cho quặng nickel Indonesia vào tháng 3 trên đảo Sulawesi là 19-21 USD/tấn ướt. Giá quặng nickel laterite nội địa Indonesia 1,2% SMM (giá giao đến nhà máy) dao động từ 25,5 đến 27,5 USD/tấn ướt, trong khi loại 1,6% dao động từ 46,5 đến 51,5 USD/tấn ướt. Trong nửa đầu tháng 3, giá HPM quặng nickel loại 1,2% là 15,49 USD/tấn ướt, và loại 1,6% là 27,01 USD/tấn ướt. Giá HPM cho nửa cuối tháng 3 sẽ được công bố vào khoảng ngày 15 tháng 3. Cung và cầu: So với tuần trước, không có thay đổi đáng kể trong cấu trúc cung cầu. Phía cung cấp: Khi mùa mưa dần kết thúc, nguồn cung dự kiến sẽ cải thiện. Phía nhu cầu: Các nhà luyện tiếp tục mua sắm kịp thời, và hoạt động vận chuyển trong tuần đã ấm lên. Tồn kho: Các nhà luyện hạ nguồn duy trì mức tồn kho thấp, và nhu cầu mua sắm vẫn tồn tại. Trong khi nguồn cung có phần nới lỏng, lo ngại thị trường về nguồn cung quặng nickel do những bất ổn chính sách vẫn còn. Với các nhà luyện hạ nguồn duy trì nhu cầu ổn định và mức tồn kho thấp, SMM dự kiến rằng mặc dù nguồn cung dự kiến sẽ tăng, nguồn cung và nhu cầu mạnh mẽ sẽ tiếp tục hỗ trợ giá cả. Phía chính sách: Sau những thay đổi trong công thức định giá HPM và chính sách kiểm soát ngoại hối, các cuộc thảo luận đang diễn ra về việc tăng thuế tài nguyên quặng nickel. Thị trường có kỳ vọng mạnh mẽ rằng chính sách này sẽ được thực hiện trong năm nay. Nếu được thực hiện, nó sẽ trực tiếp dẫn đến tăng chi phí đáng kể cho các mỏ. Với sức mạnh đàm phán mạnh mẽ của người bán trong thị trường quặng nickel, các chi phí do thuế tài nguyên gây ra có khả năng sẽ được chuyển phần lớn cho người mua hạ nguồn, đẩy giá quặng nickel tăng.



