Quặng nickel laterit Philippines: Giá có thể dao động tăng
Ngày 22 tháng 1, SMM báo cáo rằng giá quặng nickel laterit Philippines với hàm lượng 0,9% là 36-37 USD/tấn ướt, giữ ổn định; giá quặng hàm lượng 1,3% là 38,5-40,5 USD/tấn ướt, với giá trung bình là 39,5 USD/tấn ướt, tăng 0,5 USD/tấn ướt; giá quặng hàm lượng 1,4% là 43,5-48 USD/tấn ướt, với giá trung bình là 45,75 USD/tấn ướt, tăng 1,25 USD/tấn ướt; và giá quặng hàm lượng 1,5% là 51-53 USD/tấn ướt, với giá trung bình là 52 USD/tấn ướt, giữ ổn định.
Về cước vận chuyển đường biển: SMM báo cáo rằng cước vận chuyển quặng nickel từ Philippines đến cảng Liên Vân Cảng là 7-8 USD/tấn, và từ Philippines đến cảng Thiên Tân là 8-9 USD/tấn. Sau điều chỉnh tuần trước do thay đổi địa điểm vận chuyển, cước vận chuyển hôm nay không thay đổi.
Đánh giá giao dịch hàng ngày: Giá giao dịch của các mỏ Bunguet và Erman tăng nhẹ, và giá quặng nickel laterit Philippines với hàm lượng 1,3% và 1,4% tiếp tục xu hướng tăng trong tuần. Về nguồn cung: Các khu vực khai thác chính ở phía nam vẫn trong mùa mưa, nguồn cung hạn chế và ít đấu thầu quặng nickel trên thị trường Philippines trong mùa thấp điểm. Về nhu cầu: Các nhà máy nickel-sắt trong nước tiếp tục đối mặt với thua lỗ, duy trì phương pháp mua hàng đúng lúc là chính. Tuy nhiên, sự phục hồi nhẹ của giá nickel-sắt mang lại một số cải thiện lợi nhuận. Dự kiến giá quặng nickel laterit Philippines có thể tiếp tục dao động tăng.
Chủ đề nóng về quặng giao dịch nội địa Indonesia: Phụ phí cho quặng giao dịch nội địa tháng 2 có thể tăng nhẹ
Giá hàng tuần: Quặng nickel laterit giao dịch nội địa Indonesia với hàm lượng 1,2% (giá giao đến nhà máy) là 20,5-23,8 USD/tấn ướt, với giá trung bình là 22,15 USD/tấn ướt, tăng 0,15 USD/tấn ướt; và hàm lượng 1,6% (giá giao đến nhà máy) là 43,4-44,8 USD/tấn ướt, với giá trung bình là 44,1 USD/tấn ướt, tăng 0,1 USD/tấn ướt.
Về nguồn cung: Từ tuần trước, hầu hết các mỏ ở Indonesia đã nhận được hạn ngạch RKAB và vượt qua đánh giá hệ thống Simbara, dẫn đến tâm lý vận chuyển tích cực. Về nhu cầu: Giá bán NPI và sản phẩm trung gian của Indonesia tăng nhẹ, và lợi nhuận sản xuất của các nhà máy luyện kim hạ nguồn cải thiện nhẹ. Ngoài ra, do yếu tố tồn kho, các nhà máy luyện kim địa phương Indonesia vẫn có nhu cầu dự trữ đúng lúc nhất định.
Hiện tại, thị trường quặng nickel nội địa Indonesia đang hoạt động tích cực, cùng với sự giảm nhẹ giá chuẩn HPM tháng 2 cho quặng giao dịch nội địa. Phụ phí cho tháng 2 dự kiến sẽ tăng nhẹ.



