Theo Cục Thống kê Quốc gia (NBS), vào tháng 10 năm 2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn quốc tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá cả tại các khu vực thành thị tăng 0,3%, trong khi tại khu vực nông thôn giảm 0,2%; giá thực phẩm giảm 2,9%, còn giá phi thực phẩm tăng 0,9%; giá hàng tiêu dùng giảm 0,2%, trong khi giá dịch vụ tăng 0,8%. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 10, CPI toàn quốc giảm 0,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Vào tháng 10 năm 2025, chỉ số giá sản xuất (PPI) cho sản phẩm công nghiệp toàn quốc giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, với tốc độ giảm thu hẹp 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước; so với tháng trước, nó chuyển từ mức ổn định sang tăng 0,1% so với tháng trước. Giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước, với tốc độ giảm thu hẹp 0,4 điểm phần trăm so với tháng trước; so với tháng trước, chúng tăng 0,1%, cùng tốc độ tăng như tháng trước. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 10, PPI giảm 2,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp giảm 3,2%.
Đổng Lệ Quyên, Chuyên gia thống kê chính của Vụ Đô thị thuộc NBS, đã giải thích dữ liệu CPI và PPI tháng 10 năm 2025.
Giá Tiêu dùng Tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước vào Tháng 10 năm 2025
Vào tháng 10 năm 2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn quốc tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá cả tại các khu vực thành thị tăng 0,3%, trong khi tại khu vực nông thôn giảm 0,2%; giá thực phẩm giảm 2,9%, còn giá phi thực phẩm tăng 0,9%; giá hàng tiêu dùng giảm 0,2%, trong khi giá dịch vụ tăng 0,8%. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 10, CPI toàn quốc giảm 0,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Vào tháng 10, CPI toàn quốc tăng 0,2% so với tháng trước. Cụ thể, giá cả tại khu vực thành thị tăng 0,2%, trong khi tại khu vực nông thôn tăng 0,1%; giá thực phẩm tăng 0,3%, còn giá phi thực phẩm tăng 0,2%; giá hàng tiêu dùng tăng 0,2%, và giá dịch vụ tăng 0,2%.

I. Biến động giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ so với cùng kỳ năm trước
Tháng 10, giá thực phẩm, thuốc lá và rượu bia giảm 1,6% so với cùng kỳ, kéo chỉ số CPI giảm khoảng 0,46 điểm phần trăm. Trong nhóm thực phẩm, giá trứng giảm 11,6%, kéo CPI giảm khoảng 0,08 điểm phần trăm; giá thịt gia súc giảm 7,4%, kéo CPI giảm khoảng 0,23 điểm phần trăm, trong đó giá thịt lợn giảm 16,0%, làm CPI giảm 0,23 điểm phần trăm; giá rau tươi giảm 7,3%, kéo CPI giảm khoảng 0,18 điểm phần trăm; giá hoa quả tươi giảm 2,0%, kéo CPI giảm khoảng 0,04 điểm phần trăm; giá lương thực giảm 0,7%, làm CPI giảm 0,01 điểm phần trăm; giá thủy sản tăng 2,0%, đẩy CPI tăng khoảng 0,04 điểm phần trăm.
Trong bảy nhóm lớn còn lại, sáu nhóm ghi nhận mức tăng giá so với cùng kỳ, một nhóm giảm. Cụ thể, giá các mặt hàng và dịch vụ khác, đồ gia dụng và dịch vụ gia đình, và quần áo lần lượt tăng 12,8%, 1,9% và 1,7%; giá chăm sóc sức khỏe, giáo dục văn hóa giải trí và nhà ở lần lượt tăng 1,4%, 0,9% và 0,1%; trong khi giá giao thông và liên lạc giảm 1,5%.

II. Biến động giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ so với tháng trước
Tháng 10, giá thực phẩm, thuốc lá và rượu bia tăng 0,2% so với tháng trước, đóng góp khoảng 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng CPI. Trong nhóm thực phẩm, giá rau tươi tăng 4,3%, đóng góp khoảng 0,09 điểm phần trăm vào mức tăng CPI; giá hoa quả tươi tăng 1,2%, đóng góp khoảng 0,03 điểm phần trăm; giá trứng giảm 1,7%, kéo CPI giảm khoảng 0,01 điểm phần trăm; giá thịt gia súc giảm 0,9%, đóng góp khoảng 0,03 điểm phần trăm vào mức giảm CPI, trong đó giá thịt lợn giảm 2,5%, đóng góp khoảng 0,03 điểm phần trăm vào mức giảm CPI; giá thủy sản giảm 0,9%, đóng góp khoảng 0,02 điểm phần trăm vào mức giảm CPI.
Trong bảy nhóm lớn còn lại, giá ba nhóm tăng, một nhóm giữ nguyên và ba nhóm giảm so với tháng trước. Cụ thể, giá các mặt hàng và dịch vụ khác, giáo dục, văn hóa và giải trí, cùng chăm sóc sức khỏe lần lượt tăng 3,8%, 0,3% và 0,3%; giá quần áo giữ nguyên; trong khi giá đồ gia dụng và dịch vụ, giao thông vận tải viễn thông, cùng nhà ở lần lượt giảm 0,2%, 0,2% và 0,1%.


Tháng 10 năm 2025, Mức Giảm Giá Xuất Xưởng Nhà Sản Xuất Công Nghiệp So Với Cùng Kỳ Tiếp Tục Thu Hẹp, Trong Khi Giá So Với Tháng Trước Chuyển Từ Ổn Định Sang Tăng
Tháng 10 năm 2025, giá xuất xưưởng của nhà sản xuất công nghiệp toàn quốc giảm 2,1% so với cùng kỳ, mức giảm thu hẹp 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước; so với tháng trước, giá chuyển từ ổn định sang tăng 0,1%. Giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ, mức giảm thu hẹp 0,4 điểm phần trăm so với tháng trước; so với tháng trước, tăng 0,1%, tốc độ tăng tương đương tháng trước. Trung bình từ tháng 1 đến tháng 10, giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp giảm 2,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi giá mua vào giảm 3,2%.


I. Biến Động Giá Nhà Sản Xuất Công Nghiệp So Với Cùng Kỳ
Trong tháng 10, trong giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp, giá tư liệu sản xuất giảm 2,4%, đóng góp vào mức giảm khoảng 1,77 điểm phần trăm trong chỉ số giá xuất xưởng t tổng thể. Trong đó, giá khai khoáng giảm 7,8%, giá nguyên liệu thô giảm 2,5%, và giá ngành chế biến giảm 1,9%. Giá tư liệu sinh hoạt giảm 1,4%, đóng góp vào mức giảm khoảng 0,36 điểm phần trăm trong chỉ số giá xuất xưởng t tổng thể. Trong đó, giá thực phẩm giảm 1,6%, giá quần áo giảm 0,3%, giá hàng tiêu dùng thông thường tăng 1,0%, và giá hàng tiêu dùng lâu bền giảm 3,2%.


Trong giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp, giá nhiên liệu và năng lượng giảm 7,4%, giá nông sản và sản phẩm phụ giảm 5,2%, giá nguyên liệu hóa chất giảm 5,0%, giá vật liệu xây dựng và phi kim loại giảm 4,5%, giá vật liệu kim loại đen giảm 2,8%, và giá nguyên liệu dệt may giảm 1,8%; giá vật liệu kim loại màu và dây điện tăng 7,5%.
II. Biến động giá sản xuất công nghiệp theo tháng
Tháng 10, giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp, giá tư liệu sản xuất tăng 0.1%, đẩy mức giá xuất xưởng chung của nhà sản xuất công nghiệp tăng khoảng 0.08 điểm phần trăm. Trong đó, giá ngành khai khoáng tăng 1.0%, giá ngành nguyên liệu giữ nguyên, giá ngành chế biến tăng 0.1%. Giá hàng tiêu dùng giữ nguyên. Trong đó, giá thực phẩm và quần áo đều giảm 0.1%, giá hàng thiết yếu thông thường tăng 0.7%, giá hàng tiêu dùng lâu bền giảm 0.3%.
Về giá mua vào của nhà sản xuất công nghiệp, giá vật liệu và dây cáp kim loại màu tăng 2.4%, giá vật liệu kim loại đen tăng 0.2%; giá sản phẩm nông lâm nghiệp giảm 1.3%, giá nguyên liệu hóa chất giảm 0.6%, giá vật liệu xây dựng phi kim loại và nguyên liệu dệt may đều giảm 0.2%, giá nhiên liệu động lực giảm 0.1%.

CPI chuyển từ giảm sang tăng tháng 10 năm 2025, đà giảm PPI thu hẹp
—Bà Đổng Lệ Quyên, Cục trưởng Cục Thống kê Đô thị thuộc Tổng c cục Thống kê (NBS), giải thích số liệu CPI và PPI tháng 10 năm 2025
Tháng 10, khi các chính sách và biện pháp như mở rộng nhu cầu nội địa tiếp tục phát huy hiệu quả, cùng với tác động thúc đẩy của kỳ nghỉ lễ Quốc khánh và Tết Trung thu, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0.2% so với tháng trước và tăng 0.2% so với cùng kỳ năm trước. CPI cốt lõi, loại trừ giá thực phẩm và năng lượng, tăng 1.2% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng mở rộng liên tiếp tháng thứ sáu. Dưới tác động của các yếu tố như cải thiện quan hệ cung-cầu trong một số ngành nội địa và lan truyền giá hàng hóa quốc tế, chỉ số giá sản xuất công nghiệp (PPI) chuyển từ ổn định tháng trước sang tăng 0.1% so với tháng trước, đánh dấu mức tăng đầu tiên trong năm; giảm 2.1% so với cùng kỳ năm trước, mức giảm thu hẹp 0.2 điểm phần trăm so với tháng trước, thu hẹp liên tiếp tháng thứ ba.
I. Mức tăng CPI theo tháng mở rộng, chuyển từ giảm sang tăng so với cùng kỳ
CPI tăng 0.2% so với tháng trước, mức tăng mở rộng 0.1 điểm phần trăm so với tháng trước và cao hơn nhẹ so với mức theo mùa.Giá dịch vụ chuyển từ giảm sang tăng. Giá dịch vụ chuyển từ mức giảm 0,3% tháng trước sang tăng 0,2%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với mức theo mùa, thúc đẩy CPI tăng khoảng 0,07 điểm phần trăm so với tháng trước. Trong lĩnh vực dịch vụ, được thúc đẩy bởi kỳ nghỉ trùng nhau của Quốc khánh và Trung thu, nhu cầu du lịch tương đối mạnh, giá phòng khách sạn, vé máy bay và du lịch lần lượt tăng 8,6%, 4,5% và 2,5%, tất cả đều cao hơn mức theo mùa; giá dịch vụ y tế tăng 0,5%. Giá thực phẩm tăng nhiều hơn theo mùa. Giá thực phẩm tăng 0,3%, so với mức giảm trung bình theo mùa là 0,1 điểm phần trăm. Trong đó, nhu cầu tiêu dùng ngày lễ tăng, giá rau tươi, thịt c cừu, trái cây tươi, tôm cua và thịt bò tăng từ 0,5% đến 4,3%. Giá hàng tiêu dùng công nghiệp ổn định và tăng nhẹ. Giá năng lượng giảm 0,4%, trong khi giá hàng tiêu dùng công nghiệp không bao gồm năng lượng tăng 0,3%, đóng góp khoảng 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng CPI so với tháng trước. Chịu ảnh hưưởng của giá vàng quốc tế tăng, giá trang sức vàng trong nước tăng 10,2%.
CPI chuyển từ mức giảm 0,3% tháng trước sang tăng 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, giá thực phẩm và năng lượng vẫn ở mức thấp, nhưng mức giảm thu hẹp. Giá thực phẩm giảm 2,9%, mức giảm thu hẹp 1,5 điểm phần trăm so với tháng trước, kéo CPI giảm khoảng 0,54 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Trong nhóm thực phẩm, giá thịt lợn, trứng và rau tươi giảm từ 7,3% đến 16,0%, mức giảm thu hẹp; giá thịt bò, thịt c cừu và thủy sản tăng từ 2,0% đến 5,6%, mức tăng mở rộng. Giá năng lượng giảm 2,4%, trong đó giá xăng giảm 5,5%, kéo CPI giảm khoảng 0,18 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. CPI lõi, loại trừ thực phẩm và năng lượng, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu tháng thứ sáu liên tiếp mức tăng mở rộng và cao nhất kể từ tháng 3 năm 2024. Giá dịch vụ đã dần phục hồi kể từ tháng 3, tăng 0,8% trong tháng này, mức tăng mở rộng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước. Trong đó, giá vé máy bay và giá phòng khách sạn lần lượt tăng 8,9% và 2,8%; giá dịch vụ y tế và dịch vụ giúp việc nhà tăng lần lượt 2,4% và 2,3%. Giá hàng tiêu dùng công nghiệp không bao gồm năng lượng tăng 2.0% so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu tháng thứ sáu liên tiếp mức tăng mở rộng. Trong đó, giá trang sức vàng và trang sức bạch kim lần lượt tăng 50.3% và 46.1%; tác động của các chính sách như mở rộng nhu cầu nội địa tiếp tục thể hiện, với giá đồ gia dụng, hàng tiêu dùng lâu bền giải trí và hàng thiết yếu gia đình hàng ngày tăng trong khoảng 2.4% đến 5.0%, trong khi mức giảm giá ô tô chạy xăng thu hẹp xuống 2.3%.
II. Chỉ số giá sản xuất chuyển từ ổn định sang tăng so với tháng trước, mức giảm so với cùng kỳ tiếp tục thu hẹp
Chỉ số giá sản xuất chuyển từ ổn định tháng trước sang tăng 0.1% so với tháng trước, mức tăng đầu tiên trong năm nay. Đặc điểm chính của biểu hiện chỉ số giá sản xuất so với tháng trước trong tháng này là: Thứ nhất, quan hệ cung cầu được cải thiện thúc đẩy tăng giá ở một số ngành. Giá khai thác và rửa than tăng 1.6% so với tháng trước, giá chế biến than tăng 0.8%, và giá sản xuất thiết bị và linh kiện năng lượng mặt trời tăng 0.6%, tất cả đều tăng trong hơn hai tháng liên tiếp. Giá sản xuất xi măng, sản xuất máy tính, sản xuất pin lithium-ion và sản xuất mạch tích hợp đều chuyển từ giảm sang tăng, lần lượt tăng 1.6%, 0.5%, 0.2% và 0.2%. Thứ hai, yếu tố đầu vào ảnh hưởng đến xu hướng giá phân hóa trong các ngành kim loại màu và dầu khí trong nước. Sự tăng giá kim loại màu quốc tế dẫn đến mức tăng 5.3% so với tháng trước trong ngành khai thác và tuyển chọn quặng kim loại màu trong nước, với mức tăng 2.4% trong ngành luyện kim và cán kim loại màu, nơi giá luyện vàng và luyện đồng tăng lần lượt 8.7% và 4.3%; sự sụt giảm giá dầu quốc tế dẫn đến mức giảm 2.3% trong ngành khai thác dầu và khí đốt tự nhiên trong nước, và giảm 0.8% giá sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế.
Chỉ số giá sản xuất giảm 2.1% so với cùng kỳ, với mức giảm thu hẹp 0.2 điểm phần trăm so với tháng trước, đánh dấu tháng thứ ba liên tiếp thu hẹp. Thứ nhất, việc quản lý công suất liên tục trong các ngành then chốt dẫn đến thu hẹp mức giảm giá so với cùng kỳ. Tăng cường kiểm tra công suất và giám sát an toàn, cùng với dự trữ mùa đông và tăng nhu cầu điện, đã thu hẹp mức giảm so với cùng kỳ trong ngành khai thác và rửa than 1.2 điểm phần trăm.Khi trật tự cạnh tranh thị trường không ngừng được cải thiện và công suất lạc hậu dần được loại bỏ, mức giảm giá theo năm trong sản xuất thiết bị và linh kiện quang điện, sản xuất pin, cùng sản xuất ô tô đã thu hẹp lần lượt 1,4, 1,3 và 0,7 điểm phần trăm. Thứ hai, việc đẩy nhanh xây dựng hệ thống công nghiệp hiện đại và giải phóng tiềm năng tiêu dùng có trật tự đã thúc đẩy mức tăng giá theo năm trong các ngành liên quan. Đổi mới công nghệ trao quyền chuyển đổi và nâng cấp công nghiệp, với sự phát triển tích c cực trong sản xuất thông minh, xanh và tích hợp. Ngành luyện kim và gia công cán kim loại màu ghi nhận mức tăng giá 6,8% theo năm, giá sản xuất vật liệu đặc biệt điện tử tăng 2,3%, giá thiết bị viễn thông vi sóng tăng 1,8%, giá sản xuất tàu và thiết bị liên quan tăng 0,9%, giá ngành tái chế tổng hợp tài nguyên thải tăng 0,7%, và giá sản xuất máy bay tăng 0,5%. Với việc triển khai và hiệu quả liên tục của một loạt chính sách thúc đẩy tiêu dùng, giá trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lễ tăng 18,4%, sản xuất bóng thể thao tăng 3,3%, sản xuất thực phẩm dinh dưưỡng tăng 2,1%, và sản xuất đồ uống tăng 0,4%.



